Những điều bí mật của tàng thức được khóa trong vật dẫn của thực tại là cơ thể. Thí như người đang mắt sáng bỗng nhiên bị mù, là quá trình từ Tuyệt khí, nhưng những thứ trải nghiệm trước đây bằng thị giác của họ không mất đi, tức tới Sinh trong vòng tròn Trường Sinh của toán mệnh. Điều này có thể hiểu như linh hồn của nhân mệnh đó có tri giác về cái biết của những thứ thấy bằng tưởng tượng hình ảnh, nhưng bị hạn chế bởi vật dẫn ra ngoài là mắt (nhãn quan) đã bị phong bế. Khi thiền định đúng cách, những mảnh ghép của ký ức các kiếp trước bắt đầu nổi lên, đan xen mờ nhạt và dần rõ khi nhân mệnh điều hướng tâm được an tịnh, cái thấy bắt đầu hiện ra. Cái thấy này như phát kiến khoa học về kính hiển vi, là cái thấy khác biệt với mắt thường. Thí như khi quá nhiều tiếng ồn cùng đan xen thì không thể cảm nhận được những tiếng động nhỏ cấu tạo nên toàn bộ điều nghe thấy. Linh hồn (hay Mệnh) cũng vậy, không thể tri kiến thấy biết được những điều kiếp nghiệp quả trước đây khi trong thân thể, bởi những khóa xích trói buộc bởi những quy tắc trong cơ thể tại ngũ quan và quy định bởi nghiệp lực. Và khóa xích này nằm tại những tư tưởng chất chồng liên tục, không có đủ thứ gọi là Định để con mắt tiếp theo sáng lên, tức Định trong các cấp bậc của Tứ Thiền. Điều này rất hay và khoa học khi mỗi người có cơ duyên thực hành Thiền định một cách nghiêm túc sẽ phát hiện ra sự thực đã trải qua hàng nghìn năm nay, về khám phá bằng việc mở rộng khả năng nhận thức bằng cỗ máy chính cơ thể của mỗi chúng ta. Và trong giấc mơ, nơi thường được gọi kết nối giữa thực tại và những điều ẩn trong tàng thức có thể hiển hiện một số mảnh ký ức trong tàng thức của người hữu duyên. Thí như người viết đã luận về việc giữa hai người, một người mù bẩm sinh, và một người mắt sáng gặp biến cố trở nên mù nhìn nhận chánh kiến về điều họ tri kiến về cuộc sống. Cái thấy mới do tập trung nhất tâm này có điểm khác so với điều thấy thường nhật. Khiếm khuyết của cơ thể (hay ví như tính năng của máy tính) có thể tác động lớn tới việc nhận thức về thế giới của mỗi người. Người ngồi hay nằm để tâm tưởng tĩnh lặng giác quan tiếp theo tức cái thấy sẽ vượt trội hơn.
Cũng vậy, tính linh như ngôn ngữ của vạn vật, thí như về việc tác ý của việc Ăn, Ngủ, các ngôn ngữ đều biểu hiện tiếng nói khác nhau nhưng chung một ý nghĩa. Khi tác ý trong tâm thông là một trong Ngũ thông sẽ kiến giải cho thấy về việc không cần hiểu hết ngôn ngữ, trong nội tâm cũng tự phát hiểu, vấn đề này nằm trong Hành thức. Không cần cao siêu để nhìn nhận một người tu hành bằng việc thần tín hay thánh tín. Thay bằng việc thánh tín, thì việc hiểu về con đường cải biến tư tưởng của người tu hành thì tốt hơn, bởi mục đích được an ổn, được siêu việt trong lúc sống thấy được vận hành của vạn pháp, không nằm ngoài việc khiến việc không còn nổi lên nhiều luồng tư tưởng trong nội tâm, và chuyển hóa điều sợ thành bình thản, hành thức vẫn hoạt động nhưng không vướng mắc, bởi vậy Thiền phải có đề mục để tập trung, nhất tâm. Khi tĩnh lặng thực sự, bắt đầu các mảnh ghép ký ức của kiếp xa xưa, những suy luận về nhân quả nổi lên, như người mắt mờ, mù bẩm sinh được mở mắt lần đầu nhìn thấy cuộc sống mới. Tâm tướng khi đạt Định lực cũng vậy, không quá mang nhiều màu sắc thần bí cao siêu. Nhân mệnh thường cố chấp để giữ một vấn đề đối với bản thân là quan trọng, tuy nhiên rất dễ từ bỏ khi bản thân phải học tập nghiên cứu, kiên nhẫ làm những công việc, học hỏi thứ nhỏ để phát triển lớn sau thời gian dài nỗ lực. Thường muốn nhìn thấy kết quả trong thời gian ngắn. Có người có thể làm việc nặng nhọc trong thời gian rất dài, không thay đổi hàng chục năm, tuy có thể rèn luyện được sức khỏe, tuy nhiên để phát triển đột phá sẽ có phần khó khăn hơn, thường ngại thay đổi công việc vì sự không chắc chắn, bởi lương đều đặn và bản thân dần quen với công việc trở thành bình thường. Để tích lũy được tiền bạc tương đối vất vả, tuy vậy nếu người khác lên đời những vật chất hiện đại, hoặc hưởng thụ thường lệ, có thể sẵn sàng lên đời theo, mặc về công sức để tạo ra tài sản ở mức độ rất khác nhau, bởi việc nhẫn nhịn tạo cảm giác khó chịu, chi tiêu tạo cảm giác thoải mái về tinh thần. Điều này có thể dẫn tới sự sai biệt về khoảng cách xã hội nếu gặp biến cố của cả nền kinh tế khi trở nên khó khăn mà thiếu sự phòng bị bằng những khoản tiết kiệm nếu nhân mệnh chưa có tư duy kiếm tiền theo nhiều phương án mà chỉ có nguồn thu từ công sức lao động. Bởi vậy sức nỗ lực của hậu thiên từ cổ chí kim tiền nhân đều không thể đánh giá thấp. Bởi nhân nguyên trong tự tính đều có sức mạnh tàng ẩn rất lớn, bằng những điều khó làm như ẩn nhẫn làm việc nhỏ hàng ngày, qua ngày tháng thời gian dài tạo nên sức bộc phát. Có những thời điểm khi khí vận hao tán mạnh, nhân mệnh có cố gắng tích lũy được sẽ gặp việc phải hao phí bởi tật bệnh, hay vấn đề khác, tuy nhiên việc duy trì sự tiết kiệm có thể tạo bước chuyển đáng kể khi nhập vận tụ tài sẽ có tác động rất lớn tới nhân mệnh.
Nhân mệnh muốn hỏi một vấn đề hoặc một góc cạnh nhỏ theo toán mệnh. Điều này sẽ cần nhìn tập trung vào gốc tiểu hạn phối hợp vận khí của hạn hành nếu thuộc về giai đoạn hiện tại. Hoặc về tương lai. Tuy nhiên những yếu tố hoàn cảnh ngoại cảnh tác động tới mệnh cách cũng sẽ tương đối lớn khiến dự đoán sẽ có phần sai biệt. Thí như việc hỏi về phương hướng, cát hung luận định, hoặc tự duyên khởi đặc biệt như gặp một cơ hội, gặp điều đột biến sẽ có câu trả lời xác đáng hơn việc xét định về thời gian phát tài. Thí như khi xét một nữ mệnh cách Cơ Lương ngộ Tướng Tuế Ấn hội cách có Khoa Tồn Kỵ Hình Kiếp. Mệnh cách không mấy hay tuy nhiên đạt hai hành vận liên tiếp kích phát mạnh khiến hóa cục của sinh mệnh tăng lên rất lớn. Nhập khí vận 10 năm tới cách Cự Nhật có Lưỡng Lộc Mã Khốc Khách, và 10 năm tiếp theo trong Tam Hóa liên châu tới Vũ Tham Hỏa Quyền hội Kình Đào Khúc Hỉ đắc vòng Trường Sinh. Đây là cách cục bạo phát, không thể ngăn chặn khí thế cường vượng về Tài cách, miễn là mệnh cách vẫn còn tồn tại trong xã hội không bị cách ly như hình tù hay gặp biến cố kiếp nạn thì mệnh cách vẫn hoạch phát lớn trong hạn hành. Tuy nhiên khi xét toàn cục, cách cục này bên trong ẩn chứa bố cục Hình Kỵ Tồn Kiếp, như người đi trên dao, chủ thời thế thịnh hay bĩ ảnh hưởng rất lớn tới khả năng phát triển và vượt khó khăn của nhân mệnh. Như thời thế xã hội phát triển, đức liêm chính thịnh dễ khiến mệnh số hình tù, nếu thời bĩ cực, lỏng lẻo sức hoạch phát tương đối dài. Thí như một mệnh cách nổi tiếng của Ngô Thắng Minh, thăng trầm vô độ, hình tù cách, niềm tin sống là người con gái của mệnh cách cũng đã tự tử khiến nhân mệnh rơi vào thế tuyệt vọng định kết liễu nhưng vận số chưa tuyệt để có thể như Tuyệt xứ phùng Sinh, trở thành kỳ cách. Cũng bởi một phần tham vọng gắn với kiếp nạn khi luật pháp thời này của Trung Quốc rất nghiêm về việc buôn lậu. Bởi vậy khi nhìn thời vận thịnh thế với bản thân hay bĩ cực cũng đều có thể là nhân nguyên để tổ chức lại lực lượng và phản công mạnh tạo nên chiến thắng trong cuộc đời. Lý số nằm trong trời đất, nhưng cũng không nằm ngoài chữ Nhân. Luôn có niềm tin mãnh liệt sẽ khiến tỉ lệ vượt qua hiểm cảnh tăng lên rất nhiều. Cũng như các nhà khoa học nghiên cứu về tiềm năng trí óc của con người là không xác định được mức độ siêu việt. Bởi vậy nhân sinh quan mỗi nhân mệnh một khác, mức độ chịu đựng áp lực khó khăn cũng khác nhau, buông bỏ hay nắm chặt cũng ẩn liền với chữ Mệnh quý hay Mệnh thường.
Người viết nghĩ thực có số phận, thí như không may gặp hiểm tật bệnh ách y học hiện đại không thể chữa trị. Có người gặp bệnh máu khó đông nhiều người trong dòng họ, khiến một vết thương nhỏ cũng gây tuyệt mệnh đành không thể sống được bình thường. Nhưng có những cơ hội thay đổi cuộc đời với những người bình thường khi sống trong xã hội. Bình thường đã là rất đáng quý để có cơ hội bình đẳng phát triển công danh tài bạch. Số phận như thập nhị nhân duyên là vô minh từ tập khí kiếp trước. Như điều chính nhân mệnh thấy là những điều xui xẻo, bất hạnh trong đời sống. Trong các trường hợp, nhân mệnh đều phải nỗ lực giải quyết những vấn đề gặp phải và vươn lên bằng nỗ lực của bản thân. Trong tháng 3 này, tứ Thìn hội ngộ, có những cái chết tự hình bởi Thìn hình Thìn gây ra, có những sự dằn vặt đau khổ cũng tự cách này. Có những cách xung Thìn Tuất được đánh giá hung cách. Số đến, người chết trong mơ ác mộng, người trong nhà cũng có việc ra ngoài để gặp nạn, người chính chiếu tai nạn đó, người gặp Sát vận hóa thành đau buồn bởi người thân quyến gặp nạn. Vận hành của mệnh cách nhiều hướng đi, nhưng có những Sát vận chắc chắn phải có tổn thất. Có những người cuộc sống an toàn, ổn định nhưng trong tâm luôn muốn tự sát, kết liễu bản thân bởi chữ Không, vô vọng, trầm cảm. Khi người trầm cảm, việc khuyên ngăn về cuộc sống, ý nghĩa cuộc đời có thể không mang lại lợi ích, như gió thoảng qua không thể ngăn chặn đau thương. Toán mệnh cũng vậy, khi hạn hành cách cục hiểm họa lớn, việc nắm được hung họa cũng không nói lên việc tránh được họa hay không, nếu họa hiển hiện dưới dạng bệnh ách nan y cũng như dao chém vào nước, không có nhiều tác dung phòng ngừa. Người viết cũng vậy, viết điều sự thực, luận số cần đánh đổi, như bí mật cần khó khăn mới có thể tìm thấy. Tuy nhiên cái hay của toán mệnh là đáp án có thể được hỏi thêm tới những người cùng nghiên cứu lý học để nhận được đánh giá người giải đoán có thực hiểu về mệnh lý. Đây cũng là điều hay, không như người mù dò dẫm con đường, bởi những điều tâm linh huyền bí. Bất dĩ, việc xem toán mệnh dù luận định tính chính xác cao cũng tuyệt đối không được lấy để dao động tâm tướng của bản thân. Trong các trường hợp nhân mệnh đều nên xét tưởng nếu vận cách khó khăn, là những thử thách để rèn luyện phẩm chất, nếu vận cách dự báo thuận lợi cũng vận dụng hết những thế và lực và cẩn trọng phát triển. Trong thời thế xã hội, người viết có luận định bố cục tinh diệu thay đổi ý nghĩa biến hóa khôn lường. Trong thời điểm đấu tranh cái sai, thế nước phồn thịnh, Sát cách tuy đắc cách cũng dễ hóa thành hình tù. Phụ tá tinh đắc thế. Trong thời binh thế hỗn loạn, Sát cục nắm quyền định, phụ tá tinh yếu thế. Cũng có thể dễ dàng nhận ra ở những mệnh đại quý khi vận khí từ thiên hạ vận hóa Sát tinh thành Hình tù cách, cũng hóa Quan thành Quỷ, nơi cao nhất cũng rơi xuống đất. Vậy tất cả Tinh đẩu thực phân theo thời thế là chủ, mới phân tính chất là thứ yếu. Kẻ ác thường được người đời chế giễu, phỉ báng. Tuy nhiên suy xét cùng tận, giữa những lý lẽ về thiện và ác một số trường hợp đặc biệt sẽ khó định. Ngăn chặn cái ác phát sinh to lớn về sau bằng một việc ác khó có thể định đoạt là việc thiện hay ác. Bản đồ tinh diệu cũng vậy, xét theo thể chế thời thế xã hội. Có những nơi ở khu vực chiến tranh, việc lạm sát người vô tội cũng không có tòa án kết tội, lương tâm có lẽ là tòa án quan trọng như cách vận hành của nhân quả.