Mở đầu khám phá Tử Vi
Từ giai đoạn kỳ cổ, con người đã đặt câu hỏi về sự tồn tại của chính bản thể của chính nhân mệnh. Những thông tin được truyền không có tốc độ nhanh chóng như hiện tại. Nội tâm của một số nhà tri thức khi ở địa vị và hoàn cảnh sống tạm thời ổn định bắt đầu hiện nên các câu hỏi và trả lời về ý nghĩa sống, triết học. Tôn giáo cũng đồng hành song song, tuy đại đồng tức hướng con người tới cái Thiện tính ở cả hai phương Đông và Tây. Tuy nhiên có điểm tiểu dị bởi, lực lượng tinh thần siêu nhiên ở hai nền văn hóa có khuynh hướng dị biệt cho tới ngày nay. Từ học thuyết Âm Dương, lịch pháp, sự nhìn nhận xoay chuyển của thiên văn, địa lý, cũng mới cách đây vài nghìn năm, trong quá trình lịch sử dày đặc của thiên địa. Học thuyết âm dương biến hóa đúng tới mức độ áp dụng với vạn vật, từ đó sinh khởi tiếp đến Tứ Tượng, là thể âm và dương lẫn. Thái Dương, Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu Âm. Từ Thái Cực cũng như một điểm vật chất theo thuyết hiện đại nổ Bigbang và phát sinh vạn vật. Từ Tứ Tượng sinh khởi tiếp Bát Quát 8 quẻ Chấn, Đoài, Khảm, Ly, Tốn, Khôn, Càn, Cấn. Sinh khởi tiếp 64 quẻ hay gọi quẻ dịch. Đây là sự mô tả vận hành của Âm Dương. Phàm mọi hiện tượng, vạn vật trên thiên địa đều tuân theo diễn tiến này. Điều này được kiểm chứng là đúng với thế giới vi mô và vĩ mô. Coi dòng đời của một con người là một dòng chuyển động từ ký ức quá khứ tới tương lai. Đây là một hiện tượng, bởi vậy có thể dụng thuyết Âm Dương Ngũ Hành trên chính cuộc đời của một sinh vật. Cổ nhân luận là Toán Mệnh. Đi sâu về thiên văn, chúng ta nhìn thấy thêm một yếu tố hay, NGÀY được khái niệm là Dương. Và ĐÊM được khái niệm là Âm. Thực chất NGÀY nếu với người không có mắt, sinh vật mù mắt, thì cũng không khác về ĐÊM. Theo vật lý là sự chiếu của ánh sáng tức photon mang tác động tới không gian. Tại sao cổ nhân biết NGÀY xếp vào trong chữ Dương. Và kế tiếp, theo tiến hóa của sinh vật, Mắt là sự tiến hóa cần thiết qua thời gian phát triển của các sinh vật trong tự nhiên theo thời gian từ dòng nguyên thủy tới hiện tại. Và sao Thái Dương ( Mặt Trời) cũng chính tên một trong Tứ Tượng. Từ việc có bộ phận mắt, chúng ta hiểu rằng khi nhìn vật rõ ràng, mang tính Dương. Cũng vậy có mắt nhưng không nhìn thấy vật khi trời đêm, không rõ ràng, mang tính Âm. Thể Âm cũng là một phần vật chất tối, không gian tới của cả vũ trụ, ngoài thể Dương là những ngôi sao, thiên thể, khu vực chúng ta nhìn thấy. Phân tiếp ra thiên đàng và địa ngục. Những điều này đều nằm trong thế giới ý thức phản ánh từ thế giới bên ngoài qua nội tâm của nhân mệnh. Và khi phân được trắng và đen, sáng và tối, thuộc tính của vạn vật, tác động qua lại có giá trị của vạn vật tới chúng ta. Thì tiền nhân quy về cùng hệ quy chiếu Âm Dương Ngũ Hành, và THỜI, KHÔNG để truy tìm nguyên gốc của mệnh căn. Và nếu Mặt Trời không ở gần để tác động tới chúng ta mà cách chúng ta xa hơn nữa thì không khác các sao khác, không có giá trí để xét trong mối nhân duyên của nhân loại. Mặt trăng cũng vậy.
Và tự nhiên cũng tuân thủ quy luật Âm Dương Ngũ Hành tới cả những thiên thể xung quanh Thái Dương hệ, vì đây là quy luật hiển nhiên của trời đất. Vạn vật có khai sinh, có kết thúc, có chuyển hóa. Vậy, đi chết là tìm sống, và khi sống cũng đã hướng tới chết. Điều này rất hay khi cần giải thích một quá trình phát triển vốn có của vạn vật, Thành Trụ Hoại Không, Sinh Trụ Dị Diệt. Tuy nhiên tại đây không phải đường thẳng. Mà chính là một vòng tròn. Điều hay chúng ta nhận ra là tuy một vòng sinh trụ dị diệt có thể khởi từ một sự vật hiện tượng với thời gian hoàn thành một vòng là ngắn như vòng đời của một sinh vật đơn bào, hoặc dài như thiên thể ngoài vũ trụ. Tuy nhiên các dấu hiệu của các giai đoạn trong 4 giai đoạn trên của sự vật này luôn được nhận định. Vậy chu trình chết tự nhiên của con người, nhân mệnh theo giai đoạn cũng hiển hiện.Sự tuân theo của quy luật từ quy luật tất yếu là thuyết Âm Dương Ngũ Hành, dần co cụm phạm vi là ảnh hưởng của Thái Dương và Thái Âm tới con người, cho tới nhỏ hơn là quy trình của thời gian tương ứng Lục Thập Hoa Giáp, và nhỏ hơn nữa là nguyệt, nhật, thời tức tháng, ngày, giờ. Và như một lưới bắt được chu kỳ, mỗi thời khắc thai sinh sẽ chứa đựng các thông tin có sẵn được lập ra bởi việc phối hợp giữa Không gian và thời gian được biểu hiện qua Lục Thập Hoa Giáp ( 12 thiên can và 10 địa chi ). Về diễn giải vận hành của Lù Thập Hoa Giáp rất phức tạp người viết không bàn ở nội dung bài viết này. Bởi vậy theo hệ thống thời gian phương tây, thời gian trải qua không có điểm lặp lại như trong thời gian tại phương đông. Cũng như xét ngọn nguồn tại bốn quá trình Sinh Trụ Hoại Diệt. Dòng thời gian của Phương Tây không gắn được tác động mạnh của thiên thể như Mặt Trời và Mặt Trăng tới hệ đếm. Và ba mô tả chính của vận hành liên quan trực tiếp tới thảy sinh vật tồn tại trên địa cầu là ba yếu tố. Thứ nhất năm mặt trời hay 1 năm là chu kỳ của thời tiết, là thời kỳ trái đất quay quanh mặt trời. Mọi sinh vật trên trái đất cũng chịu tác động như trên. Một vòng khoảng 365,24 ngày. Thứ hai, tháng mặt trăng biểu thị sự quay của mặt trăng xung quanh trái đất, có độ dài gần 29.5 ngày. Thứ ba, việc tự quay tròn của trái đất quanh trục 1 vòng là 12 canh giờ. Ba yếu tố này đều mô tả sự vận động rất rõ ràng và cơ bản của địa cầu với thái dương hệ. Và xét gắn theo âm dương ngũ hành vẫn tuân thủ quy luật này. Điều quan trọng của 1 ngày là tìm được chính ngọ sẽ đoán được chính xác tất cả thời điểm còn lại qua hệ đếm. Điều quan trọng 1 tháng là thời điểm mặt trăng trở nên tròn hoặc khuyết. Một năm là 4 ngày chí cực. Và 1 lục thập hoa giáp là thời điểm nhuận. Từ 1 lục thập hoa giáp ta luận được tất cả các thời điểm về trước và sau. Hết 1 vòng 60 năm lại vận hành kế tiếp tương tục. Việc diễn giải này có thể trừu tượng hơn các phần khác người nghiên cứu có thể đọc chậm để hiểu.
Và 60 năm này bao gồm rất nhiều thông tin hiện trong hai chữ can chi của năm trong Lục Thập Hoa Giáp này. Khởi từ năm Giáp Tý tới Quý Hợi là 60 năm. Bắt đầu của Thiên Can từ Giáp đến Quý là 10. Bắt đầu của Địa Chi là Tí đến Hợi là 12. Điểm đầu và cuối đều khớp với quy luật. Các môn toán mệnh bắt buộc đều phải dựa trên thông tin gắn với việc thời khắc sinh ra tương ứng thời điểm nào trên một vòng Lục Thập Hoa Giáp 60 năm. Suy cùng tất cả đều xét dựa trên những chuyển động lớn của trái đất, mặt trăng. Và việc chuyển động thu thai, thai sinh của mỗi người là chuyển động nhỏ trong đó. Cũng như một bánh xe lớn đi quanh thành phố là quỹ đạo. Một cái đinh gắn trên bánh xe như một sinh mệnh, cũng sẽ theo quỹ đạo lớn này. Để cái đinh thoát khỏi bánh xe tức nằm ngoài luân hồi là việc khó khăn. Bởi vậy tiền nhân gọi là bánh xe luân hồi. Vì vậy tại sao Phật thuyết nhân mệnh muốn thoát khỏi lực chi phối rất khó khăn bởi nhiều vướng mắc trên, tuy nhiên chi khi nhìn rõ bởi tri kiến mới thấu thị được những quy luật của vị trí sống đã vận vào chính mỗi nhân mệnh. Bởi vậy việc thần thánh hóa các sao trong tử vi, hay các môn huyền học về toán mệnh khởi từ việc mê tín là điều không nên xảy ra. Khi rõ ràng các hệ quy chiếu trên gắn với mọi sinh vật, kể cả con người thì khi một nhân mệnh được thai tạo vào thời khắc chứa những đặc điểm trên được ấn ký bởi chính những thông tin chứa trong thời điểm năm, tháng, ngày, giờ đó bắt đầu tồn tại ngoài môi trường sẽ luận được một số biến động của đời người theo quy trình trên. Vì vậy cũng giải thích được những tác động như tai nạn tập thể, chiến tranh quốc gia khiến nhiều nhân mệnh chưa tới số tận đã chịu việc hoại diệt sớm để bắt đầu một vòng tròn luân hồi mới. Và tất cả môn toán mệnh đều sử dụng 4 yếu tố năm, tháng, ngày, giờ gắn với vận động để làm yếu quyết dự đoán cuộc đời. Một bộ môn tử bình giản lược rất lớn những thứ phức tạp vẫn có thể cho dự đoán có tính chính xác rất kỳ lạ. Từ những sự vận động này, xếp thành thiên văn, sinh ra toán pháp, thần số, toán mệnh lý. Và con người, cũng là một sinh mệnh trên trái đất, nằm trong vòng cương tỏa này. Việc một số nhà tiên tri nhìn thấy được sự chuyển dịch, sự kiện lớn có tác động toàn cầu cũng là điều có thể có thực. Bỏ đi một lớp huyền huyễn, người nghiên cứu dần thấy mọi thứ rõ ràng hơn một phần. Cũng bước vào một thế giới mới, nơi đôi mắt nhìn thấy rõ hơn về quá trình vận động, dự kiến vận động và những điều thịnh suy tuyệt của mệnh lý. Số mệnh không phải được sắp đặt bởi nhân duyên mà được xoay chuyển trên con đường mòn, nếu những quyết tâm thay đổi vẫn được đánh giá cao như việc "Đức năng thắng số". Và nhân mệnh có thể kiểm chứng, việc dự đoán bản thân, nhìn ra yếu điểm và thay đổi bản thân so với mệnh số. Toán mệnh cũng cho thấy được sự trần trụi của việc tự cho rằng con người có suy nghĩ và tự tư duy tất cả không nằm trong quy luật nào là có điểm khiếm khuyết.