Trời Đất có họa phúc, con người có thời vận. Tử vi đông a trọng khí hình ứng hợp với trợ cách. Nắm được thời vận nghiệp rồng còn khả, huống tới phú quý thường tình.

Trong tử vi có bốn nhóm sao lớn gồm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật. Phân hạng người ngoài xã hội không ngoài bốn thứ vậy.

Một lá số tử vi hàng vạn người cùng giờ sinh vậy. Cũng như gieo hạt giống, phát triển biến hóa vô cùng tùy hoàn cảnh bên ngoài ứng hợp. Sinh trụ dị diệt cùng sở đích nhưng tùy khác biệt ở mức độ. Vòng khởi nguyên của mệnh số là vòng chuyển dịch, do biến đổi liên tục nên không có số phận.

Wednesday, December 29, 2021

Ứng nghiệm với quẻ gieo

 Trong toán mệnh, vật quân bình là cát. Sự quân bình của âm dương là điềm lành. Trong đời người, không tật ách, bệnh hoạn là phúc. Chữ phúc là suy xét của quá trình phát triển, cứu giải qua hạn hành tai nạn và khi về các hành vận thăng trầm có thể vực dậy. Có người bạn lâu năm người viết hơn nửa đời theo dưỡng sinh khí công, đi khắp đây đó tìm các môn khí công biệt truyền để nghiên cứu, học hỏi không quản tiền bạc công sức. Tuy tài quan vận không lớn, được thân thể tráng kiện vô bệnh hoạn, tinh thần sảng khoái. Lại mở lớp truyền đạt, theo nghiệp y đức giúp người lợi thân. Cũng là điểm mừng của mệnh số. Cũng có nhiều người rơi vào suy tính cả đời tiền bạc, danh tước, được ít mất nhiều, cũng là niềm vui khi được mất, tuy nhiên khi bệnh tật khổ ách khó cam chịu.  Sức thể tráng kiện, tinh thần sáng suốt là cần thiết để có thể tạo những điều phi thường từ việc bình thường. Rất nhiều việc phi thường tạo ra từ những điều bình thường, đơn giản trong đời sống. Cũng vậy, có những điều bất ngờ tới tai họa nặng nề từ những sơ suất tạo ra. Cổ nhân tất luận "Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí". Điều họa phúc là phép định tính, thí như hỉ mừng, khổ não. Phúc là điều tốt đẹp, họa là điều mất mát, hung họa. Việc trong đám cưới chạy tang là chuyện có thực tế. Kẻ vui mừng khi tranh giành được đất đai, người buồn khổ vì cảnh tương tàn. Việc Hỉ thường có mặt khi đạt được mong muốn, cũng thường xuất hiện khi đoạt được, tranh đoạt, tranh đấu cho tới tranh cướp. Hoặc có kẻ mua được giá rẻ, người bán mừng vì bán được giá đắt. Cùng vật mua bán, cách định tính hai bên có thể suy tính khác nhau. Điều này dẫn tới một điểm quan trọng, việc vui mừng nên có tri kiến, hoặc khả năng suy tính, luận định tốt đẹp hơn việc thiếu khả năng xét đoán, nhận định sai về giá trị. Việc hỉ mừng đặc trưng cho tất cả tinh đẩu không riêng Đào Hồng, Song Hỉ. Đặc biệt, đa phần tất cả hung sát tinh đều phát sinh tính tranh đoạt và hỉ mừng khi hợp hóa cách cục. 




Do vậy, thực tế điểm vui mừng của mỗi nhân mệnh đều ẩn một cách cục Sát cách cường vượng. Thí tới, việc hỉ mừng mỗi nhân mệnh có tính sai biệt. Khi người có tiền bạc đầy kho, việc mất mát tiền của có thể không quan trọng bằng sức khỏe, người nghèo phải đánh đổi sức khỏe để mưu sinh. Xuất hiện sự bất bình đẳng là thực tại được công nhận. "Nhất tướng công thành, vạn cốt khô". Trong nội bộ một xã hội, cũng xuất hiện những bữa ăn có giá trị bằng khoản nợ tiền chữa bệnh nan y của người nghèo, liên quan trực tiếp tới sinh mạng. Trên phương tiện xã hội tiếp cận càng lớn, việc nhìn nhận sự tách biệt càng rõ. Điều quan trọng, là có những sự bất mãn thực tế hiển hiện xảy ra, tức Cự Môn chính là một nguyên nhân để thúc đẩy mỗi nhân mệnh. Sự bằng lòng vô định hướng không khiến nhân mệnh vươn lên mạnh bằng việc ôm bất mãn nỗ lực. Cự Môn chủ tinh của nhóm sao chỉ hai chữ Cự Nhật có thể vượt trôi hơn 2 nhóm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm và Sát Phá Tham. Với việc mất định hướng, vô định cũng là điểm khó khăn dẫn tới Tử Vi là tinh đẩu quan trọng để vươn lên. Thăng quan, tiến chức, phát tài, đắc danh, cầu duyên đều dễ là điểm hỉ mừng. Tuy nhiên có một số trường hợp việc lên chức mang lại khá nhiều phiền muộn, giữa hư quyền và thực quyền, giữa vị trí thăng tiến thường sắp xếp để bị luận tội, hay việc phát tài do bán chất cấm, buôn lậu có việc thất kinh trong khi phát tài. Việc ám lộc có sức phát lớn hơn chính lộc nhiều do nguyên nhân từ ám lộc cách có thể phát kiến từ những trao đổi ngầm. Do vậy thực chất cách Vũ Phủ Lộc hay Thái Âm Lộc đều mang tính chất tài cực vượng khi thành cách. Hỉ kỵ và dụng thần là phần quan trọng khi định cách ngũ hành và thần sát trong bát tự tử bình. Hỉ và kỵ khi hội cách trong tử vi cũng mang tính chất quan trọng. Một cách cục hay bởi Tham Hỏa Lộc Kỵ rất bất lợi khi hội thêm Thiên Hình. Dịch lý là tổng quyết của pháp, là sự biến chuyển dịch biến của vạn vật mô tả khởi phát từ hơn bốn ngàn năm trước. 



Nhìn dịch học thấu triệt được chứ ứng. Phàm nhân mệnh khi tâm tính tương thông, vắng lặng khởi sự, gieo quẻ tính dự đoán một phần tính chất việc diễn ra, có những kỳ nhân dự đoán về vận nhân thế diễn ra bởi những khí tượng của quốc gia. Khởi một niệm là tương ứng một kết quả. Cũng vậy khởi một con người thai sinh là điểm quan trọng tương ứng, toán mệnh tới số phận. Vì bản chất khởi sinh một nhân mệnh thể thức, tinh, khí, thần rất mạnh, thường gọi thông linh. Các môn toán mệnh, hà đồ dẫn hóa tới lạc thư, biến chuyển dịch biến có khởi và kết. Hà đồ là thường, Lạc thư là biến. Thái ất, Độn giáp, Lục nhâm mang tính dự đoán sự việc là gốc khởi. Thông linh tương ứng là tính chất đặc biệt của dịch lý tương quan với sự tồn tại của mỗi người và tương thông với đạo hay phật giáo. Việc thiền tưởng khiến tâm vắng lặng để phát sinh những năng lực tâm linh cũng tương tự như việc khởi tâm dụng quẻ, khán định được cát hung sự việc như kinh dịch. Phàm việc cùng khởi nguyên và kết quả, chỉ khác phương pháp truy cầu. Suy cùng đạo cùng chung đường, truy cầu đạo quân tử, dịch lý biến ảo khôn lường. Cũng điểm cốt yếu là nhất tâm. Vật khởi biến dịch luôn có nhân nguyên, cũng biến động nằm trong vòng quy luật thiên cơ. Hỉ mừng của người truy cầu đạo là con đường dẫn tới chứng nghiệm cảnh giới. Hỉ mừng của người binh sĩ có khi chỉ là được về thăm nhà đoàn tụ gia đình. Hỉ mừng của người tu hành là giải thoát. Tâm nhất quán dẫn tới thông linh, nếu không có điều này liệu đoán quẻ dịch tại thời khắc truy cầu liệu có thể ứng nghiệm. "Vạn pháp duy tâm tạo"  là cổ ngữ chứa đựng nhiều huyền cơ và chứng nghiệm của rất nhiều giai đoạn và hệ thống khoa học huyền bí xuất hiện nhiều tại quốc gia tu tập con đường của đạo. Những tinh đẩu tác động vào tâm tính, bản tính phản ứng trước những vấn đề bất ngờ phát sinh, khi bản thân nhân mệnh không làm thể chủ tâm trí và tác động từ định tính xã hội có thể dẫn tới trầm uất tự sát. Với tình cảnh vậy mỗi nhân mệnh giải quyết vấn đề riêng biệt. Bẩm sinh có nhân mệnh khuynh hướng nhường nhịn chịu thiệt phần mình, có nhân mệnh tranh đoạt mạnh mẽ, có nhân mệnh lý lẽ, nhân mệnh ưa hành động. 



Một vòng tròn sắp xếp bởi mệnh số "Đại phú do thiên, tiểu phú do cần". Thiên địa vận hành là cái lý dẫn động cát hung, người sống trong thể thiên định tuân định theo quy luật, thai sinh khởi thời khắc xuất nhập ngũ hành tú khí, luận định trên là sự tác định của những đúc kết tiền nhân. Tuy có một phần tác động của thời kỳ phong kiến lập định mệnh thiên tử ứng do trời lập để ứng với thần quyền. Vận số là vậy, có thể thay đổi vận khí chính là dựa vào thế mạnh ứng hợp của bản tính. Thứ tới là sự khởi quyết của tâm với những thói quen từ tưởng thức hóa nhập thành hành thức. Thí như trên mệnh số rất nhiều khuynh hướng tương ứng, rất nhiều cách cục phát sinh, tuy nhiên nhân mệnh thọ thai gia đình quyền thế sẽ có nền lực phát triển mạnh hơn. Có lá số cùng thời nhân mệnh theo nghiệp kinh thương phát tài thập vạn, có người theo nghiệp công chức đắc danh mà không có lợi, hư danh. Có những sự mô tả những hạn hành tử tuyệt, thời kỳ hiểm nguy của nhân mệnh khởi phát trên bát tự. Bia đá cổ ngữ vẫn còn đó, chỉ có người trông qua còn nhớ hay vô tình đi qua. Toán mệnh lý xưa nay vẫn còn tồn tại sau bãi bể nương dâu, gặp những người hữu duyên làm thú vui nhàn nhã kinh sách. Cũng như pháp phật cao thâm, cũng người tín kẻ không, người thấy huyễn hoặc, người chứng tâm thông. Trong lưỡng nghi, quẻ liền 2 vạch là dương, ứng thể chủ động, quẻ đứt 2 vạch là âm. Vạch thể này là tượng hình của âm dương. Mỗi quẻ 4 hào sinh Thái Dương, Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu Âm. Từ quẻ trên thêm 2 hào sinh bát quái. Luận lưỡng nghi mặt âm dương. Trong thực tế Thái Âm tức mặt trăng ẩn tàng, mượn sức sáng của mặt trời chiếu để lộ ra bên ngoài, ban ngày thì mờ ẩn, mặt trăng sáng thứ hai khi nhìn trên trời. Điểm quan trọng là luôn nhìn thấy chỉ một nửa thái âm, nửa còn lại tuy được mặt trời chiếu sáng tuy nhiên không thể nhìn thấy do góc quay tương đồng của địa cầu và mặt trăng. Ứng với điểm âm chứa dương và dương chứa âm của thái âm. Do vậy, tính âm dương lưỡng nghi được xác tính chuẩn xác qua tính chất của Nhật Nguyệt. 




Từ sự tương tác liên quan tới thực tại, Nhật Nguyệt là cặp âm dương đối ngẫu. Nắm điểm này rất cần thiết, cũng như khi cho phương trình số ẩn, thay số ẩn là điều thực tế tức nhật nguyệt và khoảnh khắc thai sinh, được điểm dự báo theo quy luật của tự nhiên và vạn vật. Từ thế lưỡng nghi sinh tứ tượng, cũng là sự tương hóa rất kỳ lạ của tự nhiên, phân định mô tả về bản chất của tứ giao mùa hoạt hành. Những điều thực tế này như bài toán cụ thể về dự đoán thứ nằm bên trong thiên địa, là nhân mệnh qua thời khắc ứng hóa với một số quy luật kế tiếp. Lục thập hoa giáp, khởi phát kế tiếp ứng với chữ thời. Điểm hóa này rất quan trọng, chia nhỏ cụ thể thêm bài toán về quy luật biến dịch. 12 địa chi phối định 10 thiên can, ứng thế âm dương theo luật, được 60 hoa giáp ứng với thời năm. Lại xét chỉnh thêm khắc của tháng xét nhập năm nhuận. Xét nhập phân cắt gần hơn là ngày, tới giờ tức thời khắc. Xét một thời điểm khớp với thời của lục thập hoa giáp khởi bởi ngũ hành 10 Thiên can gồm 5 âm và 5 dương. Phối địa chi chính là thời khắc, ứng với chuyển dịch nhật nguyệt. Ta được lục thập hoa giáp. Khi ứng điểm bắt đầu của vòng là Giáp Tí bắt ứng với thời khắc quy luật vận hành ngày đêm, tháng năm của mặt trăng, mặt trời. Vào rạng sáng ứng giờ Tí, tháng Tí ứng tiết trời đại hàn, năm Tí là khởi lục thập hoa giáp. Khởi phát tuần hoàn 60 năm kiến tập, xác tính thấy 1 năm sai biệt, khởi nhuận ứng nghiệm đúng. Người đời nghiên cứu thấu tường được lý lẽ nghiệm của quy luật là thực tế ngoài đời, thời khắc, thời gian đã hàm chứa thông tin, quy luật tại chính thời điểm. Do vậy khi khởi ứng quẻ thành tâm thông linh đoán tượng đúng, cũng thực chủng tử vô thức vận hành theo quy luật thiên địa. Xét truy nguồn gốc, thời khắc âm lịch tạo bởi bát tự 8 chữ là nguồn căn vậy. Như một bộ máy đếm từ 12 giờ, điều quan trọng nhấn đúng thời khắc chính mặt trời chiếu đứng bóng, đã bao hàm tượng khí dương cực thịnh, bao hàm quy luật trong nội tại. 




Do vậy chữ thời, hay bát tự là điểm quan trọng nhất để xét định dự đoán quẻ hay luận mệnh. Tương ứng vậy, thời khắc thai tạo một nhân mệnh còn ứng thêm một lý của vòng Trường Sinh, xét định vận trình dự đoán cát hung họa nạn cuộc đời. Vi diệu nên gọi là Huyền. Có tri kiến bên trong nên gọi là Học. Khi đếm 12 giờ ắt hiểu được đây là thời khắc thái dương chiếu mạnh nhất. Tuy nhiên hậu học về sau lại lấy 12 giờ làm gốc, như lấy tử tức bỏ phụ mẫu. Tại một số vị trí vùng cực, buổi đêm suốt nhiều tháng. Nếu lấy 12 giờ làm chính ngọ không có khí dương, dịch lý sai biệt không ứng với quy luật của nhật nguyền, không có cái thực tại, ắt mô tả dự đoán không thể xác định. Cũng như xem địa lý phong thủy vận, nơi không có dương hỏa, vật hàn lạnh, khí sát thấu độc. Những nơi phong thủy vậy gây họa hơn phúc. Nơi địa lý vùng cực, hay xích đạo, cũng là điểm thiên lệch của thiên địa. Cũng vậy, xuất nhiên vòng lặp lục thập hoa giáp mỗi 60 năm. Tuy nhiên mỗi giai đoạn lịch sử, người kiệt xuất sinh bởi thời định sai biệt không lặp theo vòng trên. Cuối cùng, điểm cốt yếu của nhân sinh. Người viết gặp cảnh biến động của thời cuộc, thời điểm quốc gia gặp nạn. Có điều xuyên suốt từ xưa tới nay, có những nơi người nghèo khổ nhất, lại chứa đựng chủng tử lương thiện hành động không suy nghĩ thiệt hơn. Người bươn trải ngụ cư đầu đường, cho đi đồng tiền rách nát tới người  lâm cảnh bệnh tật nan y, bệnh hoạn khổ cực, khi nhận lại sự trợ giúp từ chối giữ sự thanh bạch của Liêm Trinh Thiên Lương. Thời điểm khẩu hiệu " một nắm khi đói bằng một gói khi no " cùng cực, về sau thời hòa bình có người được phụng dưỡng, nhiều người sau khi trải qua thời điểm hoạn hạn đùm bọc, tới giai đoạn đầy đủ chính gia đình rời bỏ, coi như gánh nặng. Có những trường hợp, nhận một điều tốt như bất ngờ xúc động không thể kiềm, vì người thân tử tức còn không lo tới, già sức yếu tự lo bản thân, người ngoài vì lòng thương người, giúp đỡ không vì sự liên quan lại có thể hết tâm ý giúp đỡ. Dẫn trong bản thức, hoàn cảnh khó khăn cùng cực, giữ được chữ Nhân. Người thân không có điểm nương tựa, nhiều nguyên do được giải thích. Tuy nhiên suy xét rõ cũng là chữ bạc. Ứng câu " Cò ơi cò bạc như vôi " như sự thực hiện thực không thêm bớt nửa lời, nhận định không phiến diện. Những nhân mệnh vậy, thường lại xuất hiện các tổ hợp Sát vô tình,  mệnh Sát hữu tình thì phát tiết hợp hóa bạo phát. Mệnh Sát vô tình thừa nhập cơ tới giai đoạn đảo nghịch vận lâm thế nguy cấp, cũng ứng hiềm nhân quả tuần hoàn. Tới khi chung cuộc, vật đều trạng thái hòa, tất cả đều bỏ, danh sắc tài không còn là thứ quan trọng, đều trôi như nước, chỉ còn tâm hoan hỉ hay khổ não, luyến tiếc. 

Friday, December 10, 2021

Cự Hỏa Kình Dương, chung thân ải tử

 Vạn vật đều có tính chiêu cảm, có thể luận như lực hấp dẫn tác động qua lại. Suy cho cùng, tâm tướng cũng vậy. Hạn hành chẳng qua là nơi lưu mệnh trong thời gian ngắn Nhật hạn, Nguyệt hạn, Tiểu hạn, hoặc lưu mệnh trong thời gian dài Đại hạn. Cự Hỏa Kình Dương chung thân ải tử, tuy nhiên khi xét thực tế, rất nhiều cách cục này chủ gặp nhiều điểm tốt đẹp, phát tài quan song mỹ rất hay. Điểm khi xét đến tại phú luận tại một tính chất nguyên thủy của cách cục. Có thể hiểu trường hợp xảy ra như việc tất cả Mệnh, Thân, Đại Hạn, Tiểu Hạn đều gặp cách cục Cự Hỏa Kình Dương, bất hội trợ cách như Hóa Quyền, Thai Tọa, Hóa Lộc, Hóa Khoa, Xương Khúc, Tả Hữu, Thiên Khôi, Phượng Các, Đào Hoa,... cách cục trên sẽ thành cách chung thân ải tử. Hoặc kể như hội trợ tinh, thêm Sát Kỵ tinh cũng là mang ý nghĩa hung họa. Tính chất chính của cách Cự Hỏa Kình mang ý nghĩa không thể đương cự, không thể chống đỡ dẫn tới trầm uất trước biến cố nặng nề, mạng vong. Cũng vậy, Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Kỵ biến hóa thành nhiều ý nghĩa theo dòng cách cục, tuy nhiên vẫn mang ý nghĩa chính là hóa khí ra tính chất riêng biệt. Có sách luận, Hóa Lộc gặp Không Kiếp thành cách nghèo hèn. Hay Hóa Khoa gặp Không Kiếp thành khoa nạn. Hóa Kỵ gặp Thanh Long trở thành rất tốt đẹp, rồng ẩn trong mây. Cần rất cẩn trọng khi suy xét định cách của hóa khí. 




Có một điểm cách hay khi xét định khí hóa của vận. Ở mức độ cơ bản tuy nhiên khi nghiên cứu luận định cách cục có thể không chú ý tới là điểm vận của Sát cách. Tại điểm vận Sát cách khí hóa dồn ép bởi cách cục Kiếp Kỵ, Kỵ Hỏa, Hỏa Kình, Kình Kỵ Khốc, Tức Sát cách tính dương, đương vượng bộc phát. Hành vận trải qua áp lực khủng kiến, tuy nhiên nếu đại vận kế tiếp, cách cục thời cơ phát khởi, hoặc duy như các cách cục cát, hoặc đắc cách, khí số đại vận này sức thành tựu không thể xem thường. Thăng phát rất mạnh. Hai hành vận tiếp chuyển, ắt nếu một hành vận trải qua cách cục Không Kiếp, hành vận tiếp theo sẽ tránh được bố cục này, nếu hội họp Xương Khúc thành cách được đánh giá hay. Sát cách đắc chế hóa, điểm vận khí vượng, lưu tới hành vận quyền cách, như Binh Hình Tướng Ấn, Quyền Khốc, Quyền Tuế, luận tương thông Quyền Sát. Thực tế điểm hóa khí vận của Sát cục là nguyên tắc cơ bản. Thí như việc khi đặt nhân mệnh thực hiện nhiệm vụ công tác ngoài đảo xa hoặc biên giới, sẽ hình thành tư tưởng quý trọng ở vị trí giao thông thuận tiện, đô thị tấp nập nhiều người đông vui. Cũng vậy, nếu nhân mệnh trải qua được giai đoạn nợ số tiền rất lớn, sẽ cảm thấy việc không có khoản nợ là điều rất quý. Phàm ở trong lao tù mới thấy thời gian tự do quý giá. Người bị bệnh nan y như ung thư, tiểu đường, phổi tắc nghẽn thấy giá trị của sức khỏe. Sự kích phát điểm vận sau khi qua giai đoạn Sát Kỵ trùng phùng có tính chất phát triển đột biến nếu thành cách. Trong các Sát tinh, dễ thành cách nhất khi hợp hóa là Kình Dương, Hỏa Tinh. Cũng là Sát tinh dễ mang lại thất bại, nguy hiểm, thương tật. Kình Dương là ngôi sao cần có nếu nhân mệnh khởi phát điểm thấp, thường diện tướng luận định cách Kình ngộ Long Trì được đánh giá là hay về tướng mũi. Xét cách cục thực tế, vị trí của Hỏa Tinh gặp Lộc hay Quyền là cách tốt đẹp, do tính chất bạo phát nhanh chóng đặc biệt khi đắc địa. Một lá số nhân mệnh Thiên Tướng người viết có luận gần đây cuộc đời nghèo khổ, tới hạn hành Hỏa Khốc Kình Lộc, giao hội Tuế Phượng cách trong thế Sát Phá Tham, mười năm làm nên tài sản rất lớn, đất đai rất nhiều. Khi xét định cách cục, rất cần lưu ý tới các trường hợp đặc biệt, do bản chất thực tế ngoài xã hội người thành tựu lớn không nhiều, việc chiếm đa số là người bình thường, hoặc làm công ăn lương, hoặc buôn bán nhỏ. 




Để xét định nhân mệnh quý hiển, điểm thứ nhất cách cục hoặc đắc cách hợp hóa, hoặc phản cách thành quý, thứ tới khả năng điểm hóa Sát rất mạnh. Một số kinh sách luận về định cách của Kình Dương và Hỏa Tinh có điểm cần tránh hiểu theo nghĩa của từ ngữ. Do có phần ý nghĩa phú luận bởi biệt cách tức cách cục thể hiện rõ tính chất theo hung tính của tinh đẩu. Thực tế nhiều câu phú khiến người nghiên cứu tử vi rất khó khăn trong việc định hình tính chất, ý nghĩa của cách cục. Một lá số đắc cách tức đảm bảo yếu tố Sát vượng không hóa thành sự nguy hiểm với chính bản thân nhân mệnh. Sức phản kháng của nhân mệnh tương ứng với những lựa chọn mang tính bước ngoặt cuộc đời. Thường nghe thấy tính chất nhận định về con đường sự nghiệp là tươi sáng hoặc trắc trở. Trong bản chất của biến động này là sự thăng tiến liên tục, hoặc sự thăng giáng tuần hoàn. Một số nhân mệnh đường sự nghiệp nằm ngang, bình ổn không có tiến triển nhiều trong các hạn hành. Lá số ổn định trong thời điểm thế giới hiện tại thực tế không còn ứng hợp như trong thời kỳ lịch sử. Các truyền thống văn hóa và định hướng phát triển xã hội, ngành nghề, quan tước, phú cách về ý nghĩa và quyền lệnh đã phát sinh biến hóa thay đổi nhiều. Điểm quan trọng khi xét định các lá số gặp cách cục ổn định, tránh Sát Kỵ hội mệnh về vận trình phát triển rất khó khăn, thường chấp nhận với thực tại. Có lá số nhân mệnh làm công ăn lương trong nhà nước có bất mãn do cảm thấy không phù hợp với Tài Bạch tức về lương tiền. Thực tế vấn đề thời thế xã hội mỗi thời điểm nhân mệnh sinh sống, tồn tại tại lịch sử phân hóa những ngành nghề với cuộc đời bó buộc rất khác nhau. Đây là điểm rất quan trọng để xét định cách cục, do nghề nghiệp là đặc trưng không thường thay đổi nhiều của các cách cục ổn định hoặc ngay bố cục Sát cách. Trong thực tế, nếu lựa chọn một khuynh hướng làm việc công, viên chức trong nhà nước, hoặc ngành nghề nhà giáo, bác sĩ, y tá, đầu bếp,... là sự ứng hợp của cách cục hội cách của nhân mệnh hướng tới ngành nghề này. Ở quốc gia Mexico, xuất hiện chiến tranh ma túy là thế lực ngầm rất lớn và hàng trăm nghìn người mất tích tại đây. Thực tế đã xuất hiện thêm rất nhiều nghề nghiệp khi lợi nhuận, hay lộc được phát sinh. Từ thể chế lịch sử mở rộng lãnh thổ, tới giai đoạn hiện nay. Lộc là hóa khí đứng đầu, phát khởi tới Quyền và Khoa. Nơi có Lộc sẽ sinh khởi nghề nghiệp mới, sinh khởi uy tín, hay quyền và nghiên cứu Khoa về vấn đề phát sinh. 




Thí như Cơ Lương Diêu Y Tướng Ân Quý thường hành nghề y đạo, hoặc liên quan tới y học. Hoặc cách Phá Quân hội Binh Tướng Quyền Khốc thường theo khuynh hướng binh nghiệp, võ cách. Ngành nghề gắn liền với rất nhiều về thông tin một nhân mệnh, thường khi ghi chép thông tin cơ bản một người, phân định tới nghề nghiệp, công việc đảm nhiệm. Có người theo đường quan chức, có nhân mệnh theo đường kinh thương, hai phân định chính này là Tài Bạch, Quan Lộc mối quan tâm thường trực của đời người. Do vậy, Tài Bạch và Quan Lộc tam hợp chiếu với Mệnh cung. Mệnh là tổng thể một nhân mệnh, Tài Quan là thứ bên ngoài tuy nhiên là thiết yếu của nhân mệnh. Như một đặc điểm để nhận định một người, áo khoác Tài Bạch tức tiền bạc, và Quan Lộc là vị trí công việc, địa vị trong hệ thống xã hội là gốc rễ xét các đối đãi với một nhân mệnh, chi phối các yếu tố khác của nhân mệnh. Sự tác động này nhìn ở vấn đề thực tế tác động qua lại lẫn nhau, thí như tài sản lớn sẽ dẫn tới địa vị xã hội cao, cũng đánh giá về thân phận. Hoặc về chức vụ, quyền lực lớn sẽ có những chế độ về vật chất tốt hơn. Hoặc như năng lực, bản tính của nhân mệnh tác động mạnh tới tài sản, địa vị của nhân mệnh. Sự tác động liên hệ này là tam giác Mệnh, Tài, Quan. Luận về Sát tinh, biến hóa phức tạp. Phú luận "Dương cung gặp cách Hỏa Kình, một là phát lớn hai là hình thương". Với bố cục Hỏa Kình hội cách, đặc biệt Hình Kỵ lai xâm nơi hạn hành, rất nhiều nhân mệnh gặp tai nạn hoặc nguyên cục tại Mệnh cách có thường tật yểm li với xã hội. Ngược lại, có một số nhân mệnh kích phát thành cách cục mang tính hoạch phát. Sự biến hóa của cách cục này mang tính hai cực, có thể hóa cực đoan hoặc may mắn kích phát. Xét về cách cục Hỏa Kình kích phát cách ứng câu "Hung tinh đắc địa phát dã như lôi", bất kỳ nghề nghiệp đều ứng hợp thăng phát mạnh do nhiệt hỏa nhiệt huyết của Hỏa Tinh dẫn động Kình Dương táo bạo. Tuy nhiên với những môi trường công việc có tính đặt bẫy, cạnh tranh âm ám, bố cục này rất dễ ứng cách bị loại trừ. 




Để thành kẻ có quyền cần thêm Quyền tinh do không thể gặp Ấn tinh trong bộ Tồn Tướng Ấn tại đây. Thiên Không Địa Kiếp là thiên tai họa nạn, như động đất, sóng thần, lũ lụt, hỏa hoạn,.. những thiên tai ứng bất ngờ, khó có thể trở tay kịp là tính chất cơ bản của Không Kiếp. Tuy nhiên khi gặp thiên tai họa nạn, một số kẻ lại là thời điểm đắc lợi, được vận hội tới kiếm ra tiền bạc. Điểm chung có sự sắt đá trong nội tâm, tức thuộc cách ác bởi lợi dụng sự khó khăn, nguy cấp để đạt được lợi ích. Do vậy thực tế để dụng cách Không Kiếp cần bố cục có tính táo bạo, có thể hư giả như Thiên Hư, hoặc cách ác để thành tựu. Thời kỳ lịch sử, trước luận thổ phỉ có sơn, hải, thảo, mã tặc khởi nguồn trên tất cả quốc gia trong lịch sử, mọi nơi sinh chiếm đoạt. Tức gắn với bản tính của người. Tinh đẩu cũng mang ý nghĩa vậy, là nguyên thủy về bản tính diệu dụng của con người và sự hội họp mô tả tác hóa cát hung là sự biến định của tư tưởng, hành động của chư tinh diệu. Thổ phỉ, buôn lậu là nghề trái pháp luật, do vậy gặp Kỵ Hình trong nội cách. Hoặc bố cục Kỵ Kiếp, Tang Kỵ, Hỏa Kỵ,... sẽ có khuynh hướng biết hành động sai trái vẫn vi phạm. Nếu Kỵ Hình có Xương Khúc phát triển mạnh hơn, do Xương Khúc chủ sự hiểu biết, cũng là văn tinh chủ nho nhã, học vấn cách. Kẻ làm thổ phỉ có lý riêng để hành động, có toán cướp người giàu chia người nghèo, có toán thấy sự bất công của xã hội phong kiến, cũng như người đứng đầu cuộc khởi nghĩa, đắc thời có quần chúng ủng hộ là chính nghĩa, gặp thất bại là phản loạn tùy vào người thắng lợi sẽ viết lại lịch sử. Tượng ứng của Lộc Tồn là sự gìn giữ, tích trữ. Lộc Tồn mạnh do sự giúp sức của Tướng Quân, Quốc Ấn. Xét về Hóa Lộc là khí từ tổ hợp Chính Tinh mang ý nghĩa của tinh đẩu hóa khí. Lộc Tồn có tác động mang ý nghĩa riêng rẽ. Tổ hợp Lộc Tướng Ấn thành cách là sự tiết kiệm của Lộc Tồn, gìn giữ từ thế hệ trước Tồn Ấn với Tướng Quân là sao tình cảm, tình thương gia đình. Quốc Ấn còn là con dấu, sắc lệnh, với Tồn Ấn di sản thừa kế. Cách Tồn Ấn Tướng hay là có thêm Đào Hoa đồng cung với Lộc Tồn. Thể hiện ý nghĩa niềm vui với tài lộc, tức là cách phát tài. Khi mất mát tài sản khó có thể vui mừng, do vậy Đào Tồn cư Ngọ can Đinh được đánh giá rất hay. Ngay việc mệnh tại đối cung với cách Thái Dương tại Tí nhật trầm thủy bể, phản cách thành bố cục hay với can Đinh. "Thái Dương cư Tí, Bính Đinh phú quý trung lương". Can Đinh gặp 6 địa chi, Hợi Mão Mùi và Tị Dậu Sửu. Đào Hoa tại Tí và Ngọ. Cách cục Lộc Tồn xung chiếu Đào Hoa hoặc đồng cung Đào Hoa. Hai cách này phối hợp Mệnh cách có Hóa Kỵ hội về từ Cự Môn thành cách cơ hội, niềm vui tới từ bên ngoài. Trục Đào Phi có tính chất đặc biệt, mang tính bộc phát lớn. Thực tế cách cục Kình Hổ Khốc hay Đà Phượng được đánh giá hay khi hội nhóm Phượng Khốc an theo Địa Chi. Với cách cục Lộc Tướng Ấn và Phi Phục Thanh hội Đào Hồng Hỉ an theo Địa Chi cũng mang ý nghĩa hay. Nếu ưa tranh cướp gặp cách Kình Đào Hà, cạnh tranh là Kình Phượng. Thực tế Đào Kiếp có tính nhanh chóng.