Sự nối tiếp của thế hệ đi trước trong một gia đình tức vận nhà khiến hệ cách cục định số biến chuyển theo khuynh hướng có tính khảo cứu tương đối hay. Thứ nhất thường một số người nghiên cứu tử vi có kinh nghiệm luận về truyền tinh của phụ mẫu tới nhân mệnh. Thứ tới là việc suy xét tính chất này có một đặc điểm quan trọng khi khảo cứu là xét sự biến dịch của tổ hợp tinh đẩu hung họa trong một gia cảnh tốt đẹp để định cách biến hóa của tổ hợp. Cách cục bản chất về tính cách hay bản tính không có sự sai biệt. Tuy nhiên về lý tưởng, tham muốn đạt được của hai trường hợp này đã ở cách xét mức độ rất khác nhau. Vận thiên hạ thắng vận nước, vận nước thắng vận làng, vận làng thắng vận nhà, vận nhà thắng vận mệnh. Đây là sự tác động nghịch với nhân mệnh. Tuy nhiên bản chất một nhân mệnh khí hóa cao viễn hay thậm chí bình thường vẫn có thể là tác nhân suy chuyển vận nước, việc này đúng với yếu nhân đứng đầu trong một tổ chức quốc gia. Trong bài viết này bàn về tác động của vận nhà tới mệnh cục. Thể chế, truyền thống, bản sắc một quốc gia sẽ tác động tới toàn bộ công dân của quốc gia này, từ hệ thống công trình cho tới giáo dục, y tế, kinh thương,... Đặc biệt là sự tác động của giáo dục sẽ tương đối mạnh. Tại đây tác động này sẽ hình thành nên sự sai khác giữa các quốc gia. Tức sự tác động của vận nước sẽ liên quan tới nhân mệnh quốc gia này. Vận làng tức xét hoàn cảnh sinh sống tại một địa phương. Và vận nhà là tác động của gia đình, phụ mẫu huynh đệ tới nhân mệnh. Nếu vận nhà cực thịnh, tức tổ nghiệp ở vị trí cao trong xã hội thậm chí quốc gia. Tính chất của toàn bộ tinh đẩu sẽ sai khác về tham muốn và lý tưởng. Thí như với lá số nhân mệnh đắc cách Cơ Lương cư Thìn hội Khoa Lộc Mã Xương Khúc Tả Hữu, sinh khởi trong gia đình phú gia địch quốc. Nhân mệnh đắc cách này có khuynh hướng phát tài phú tương đối mạnh. Tuy nhiên trong các lá số nghiệm lý, có nhân mệnh theo khuynh hướng tu đạo, có người rời bỏ gia đình ẩn cư tu đạo. Các bố cục định cách về khuynh hướng đã hóa hợp sai biệt tương đối mạnh. Tượng cách Cơ Lương có một phần tính chất ưa nghiên cứu đạo, thoát ly tăng đạo như cách Tử Tham. Khi định cách cục này có trường hợp nghiệm lý quả thực có kết quả trường hợp sai biệt.
Với bố cục mệnh cách thừa hưởng kế tục được tước vị, hay tài sản rất lớn của phụ mẫu hay thậm chí gia tộc, dòng họ do tính truyền thừa, kế thừa. Nghiễm nhiên một số mệnh cách này đã có được khởi đầu rất tốt đẹp. Đây là điểm rất cần chú trọng khi xét gốc khởi ban đầu của cách cục. Thực tế trong giai đoạn hiện thực, tại tất cả các quốc gia khi xét ở phương diện doanh nhân hoặc chính trị có nhiều mệnh cách được sinh khởi trong gia đình có truyền thống lãnh đạo đứng đầu một tổ chức hoặc một quốc gia. Gốc khởi phát này như nguồn lực rất lớn tới nhân mệnh cũng dễ xét tới trong ngay môi trường xung quanh mỗi nhân mệnh. Tuy nhiên khi khảo sát về nhân mệnh đắc thành tựu khởi phát từ gốc vận nhà tương đối yếu thế, với cách cục Sát cách đắc lệnh vẫn mang ý nghĩa hoạch phát rất lớn. Nhân mệnh nếu khởi điểm không được nhiều thuận lợi, có thể trong hoàn cảnh rất khó khăn bằng nỗ lực tạo những thành công lớn tới xã hội cũng xuất hiện rất nhiều. Cách cục này để thành cách có những tinh hệ thường khi xét luận chủ có tính chất vươn lên, cầu tiến rất mạnh. Khi nghiệm lý toàn cục xét tính chất sao, cổ nhân phân định Khôi Việt là bộ sao quý nhân, tính chất vượt trội rất mạnh, an theo Thiên Can nằm ngoài bốn nhóm sao chính an theo Thiên Can. Thiên Khôi và Thiên Việt nếu nhập Mệnh ắt nhân mệnh hẳn không là người tầm thường. Lưu ý việc Khôi Việt nhập mệnh khác tam hợp chiếu, củng chiếu mệnh hoàn toàn. Khôi Việt thí như sự trọng đại, khi nhập mệnh mang ý nghĩa tăng trọng cung độ này. Nếu xét tính bộc phát, Khôi Việt có tính chất dự đoán, cát hóa bố cục hung cách. Không Kiếp bộc phát bất ngờ. Khôi Việt là cách cục chủ vươn lên, là thế trợ lực của hoàn cảnh tới nhân mệnh. Mệnh cách gặp Khôi Việt, nếu sinh khởi nhân mệnh hoàn cảnh khó khăn sẽ có sức vươn lên tương đối mạnh. Về phần định cách cục Khôi Việt một số bài người viết đề cập tới tính chất của tinh đẩu này. Thường xét luận 6 trợ tinh gồm Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt. Tuy nhiên nếu xét thực tế trên thiên bàn có 4 trợ tinh có thể hóa khí và có bàng tinh an theo trợ tinh này tức Tả Hữu Xương Khúc có Thai Tọa Ân Quý Cáo Phụ. Tả Hữu chỉ Hóa Khoa có 2 phụ tinh Thai Tọa. Xương Khúc có thể Hóa Khoa và Hóa Kỵ gồm 4 phụ tinh Ân Quý Cáo Phụ. Thực tế phân định hai tổ hợp của Thai Tọa và Quang Quý an theo ngày sẽ hình thành một số cách cục mang ý nghĩa cốt lõi trong trợ luận về độ số.
Hai bộ Quang Quý và Thai Tọa an theo ngày nên không nằm cố định theo tổ hợp sao xác định từ trước. Tác động của hai bộ sao này tương đối mạnh, biến chuyển tính chất hoàn toàn của một cách cục cát hung. Người nghiên cứu tử vi thường nghiệm lý hai trường hợp Xương Khúc Ân Quý đồng cư Sửu Mùi và Tả Hữu Thai Tọa đồng độ tại Sửu Mùi. Bốn trợ tinh Tả Hữu Xương Khúc hợp hóa tương đồng, xung chiếu tại Thìn Tuất, tam hợp chiếu tại Tị Dậu Hợi Mão, đồng độ tại Sửu Mùi và đơn thủ tại Tí Dần Ngọ Thân. Sáu vị trí Thìn Tuất Tí Ngọ Dần Thân gặp trợ tinh Tả Hữu Xương Khúc không đủ bộ, đơn thủ. Do vậy cổ nhân luận cách Xương Khúc Tả Hữu đồng cư Sửu Mùi là cách cục nhập miếu cát hóa mạnh, đặc biệt khi giao hội Thai Tọa hay Cáo Phụ. Với Sát tinh Không Kiếp luôn đồng độ tại Tị Hợi, xung chiếu tại Dần Thân, tam hợp chiếu tại Mão Dậu Sửu Mùi, đơn thủ tại Thìn Tuất Tí Ngọ. Khi xét xong phân bố của Chính Tinh, xét Tứ Hóa, 4 trợ tinh, Không Kiếp để định khí hình gốc hay năng lượng của tinh bàn. Tại sao gọi là năng lượng ?. Do tính chất lưỡng đấu của Sát và Trợ tinh, hoặc vị trí kích phát treo của các tổ hợp này khi nhật hạn, nguyệt hạn, tiểu hạn với thời gian ngắn vận qua sẽ gặp biến hóa mạnh trong tư tưởng, hàm tính biến động, dao động mạnh. Năng lượng trong các tinh hệ Chính Tinh với các nhóm sao thủ mệnh sai biệt tương đối lớn. Xét cục nếu phần năng lượng của Sát cục lớn, hoặc trợ tinh lớn là điểm vượng suy của nguyên cục. Nếu Sát tinh có năng lượng lớn, sức áp lực, đè nén, bất ngờ, lo sợ và bế tắc, mất phương hướng,... sẽ phát khởi mạnh nếu không được chế hóa. Với trợ tinh lớn như Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt là sự phát triển, xu hướng tốt lên, tăng tính ổn định, thời vận, tuy nhiên năng lượng khởi phát không lớn mạnh, khởi tham vọng lớn như Sát tinh do tính cân bằng, ổn trọng trong tính chất tác hóa. Trên tinh bàn, xuất hiện các tổ hợp có sức tác hóa lớn, đây là mệnh phát triển bất ổn định, tức khi phát ắt hoạch phát tài danh, khi hung họa tăng mạnh tính hung. Bản chất khi xác định dòng khí hóa vận hành qua các hành vận tác động tới tư tưởng, Mệnh Thân việc gặp tai kiếp nạn ách thương tích, thương tật hay phá tán bại vong đều đổng đẳng tính chất hoạch phát, cát hóa, đắc tài lộc, gặp thời cuộc. Đều không là mệnh thường, tuy nhiên hai khuynh hướng rất sai biệt.
Điều quan trọng, người nghiên cứu tử vi xét luận từ gốc định, có thể phân rõ năng lượng trong tổ hợp hình thành mạnh là cát hay hung. Sát tinh có thể phối hợp định cách đại cát, cát trợ tinh khởi phát tối hung. Điểm khẩn yếu này biến hóa vận động thực tế do mong muốn của lòng nhân. Thí như một loài sâu bọ, khi diệt loài này có thể mang kết quả tốt với con người tránh hại cây quả, tuy nhiên có thể kết quả xấu với tự nhiên khi mất cân bằng. Năng lượng hay khí hóa gốc của tinh hệ cũng vậy, ngược về gốc bất phân cát tinh hay sát tinh. Khi truy nghịch, nghiên cứu giải đoán lá số người nghiên cứu cũng suy xét từ nguyên căn, thứ tới phân định cát hay hung của chính nhân mệnh mới có thể thực tránh một số sai lầm khi luận giải. Nếu nguồn năng lượng khởi phát trên một số tổ hợp mạnh, hay chính yếu là tổ hợp cung trọng điểm sức tác động lớn. Nghiên cứu tử vi không chỉ nhìn xét cách cục luận theo phú giải. Tinh đẩu biến hóa phức tạp, một số người nghiên cứu thời gian còn chưa thực sự nhiều tuy nhiên do một phần tính huyền học của toán mệnh tương đối khó tiếp cận, người nghiên cứu cũng thường muốn tri kiến của bản thân được người biết như trên các trang mạng khi luận giải hay truyền đạt tới mọi người như sự nghiệm lý, tổng hợp phân định phú giải cần sâu dày cần tránh rơi vào sự tự tin dẫn tới tạo nghiệp quả khi dự đoán lá số tới người khác. Quan trọng phú luận có tính phổ quát, tổng hợp rất lớn, nếu không nắm rõ yếu tố cốt lõi rất dễ sa vào câu chữ trong phú luận. Điểm chế hóa của mệnh cách là sự dung hòa của cách cục. Như việc dung hòa được thuốc có tính độc trong cơ thể phá những bệnh huyết ứ trong đông y. Ngược lại bồi bổ những liều thuốc, thức ăn bổ nhiều sẽ phát sinh tới bệnh tật. Bổ cứu là điều quan trọng trong ngũ hành tương sinh tương khắc. Tức giữ được đạo trung dung vậy. Việc được mặt này mất điểm khác là quy luật của thiên địa. Cách cục tượng cách lạc quan và hướng lên phía trước khi thời điểm hoàn cảnh khó khăn nhất là cách cục mang ý nghĩa cát hóa mạnh. Mệnh tạo này có sức đột phá mạnh, luôn tìm kiếm cơ hội, giữ tích cực trong thời gian dài là điểm ít cách cục nhân mệnh có thể hình thành. Các tổ hợp an theo Địa Chi. Với nhóm Đào Hồng Cô Quả và nhóm Tuế Hổ Phù Tang Hư Mã Phượng Khốc hình thành nên các cách cục mang ý nghĩa sai khác về tính cách khi nhập Mệnh. Đào Hồng có tính bất ngờ, Đào Sát chủ đoạt lấy, giữ của bản thân, Đào Hồng là nguyên nhân, Cô Quả là kết quả. Tuế Hổ Phù và Tang Hư Mã là hai mẫu người khác nhau, một chủ quan điểm, lập trường, lý tưởng rõ ràng. Một chủ tính xã giao uyên bác, mẫn tiệp, thích nghi, đa năng. Nhân mạng phân định như trên, phối hợp cách cục chính tinh và các nhóm sao khác hình thành nên hệ tư tưởng, mẫu người riêng trong xã hội. Cũng như xét định nhân tướng phân định diện tướng sai biệt có những tính cách riêng rẽ, hoặc như mệnh cách chịu ảnh hưởng của hành khí Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ trong ngũ hành phân định tính cách riêng.
1 comments:
Trong hộp thư của người viết có thời điểm có tình trạng xảy ra việc bị thất lạc thư đến. Cháu có thể gửi lại để người viết phản hồi tới cháu. Thân.
Post a Comment