Tham muốn, nhu cầu thiết yếu chiếm một phần thời gian của bản thân mỗi đương số. Khi xét cách cục của các sao theo tổ hợp, cách cục tạo bởi Hình Diêu Y mang tính chất đặc trưng của hai tính chất nghịch phát, khởi từ một nguyên cục. Thiên Hình là sao an theo tháng, tức nguyệt vận, có tính chất uy áp, có tính chất của khắc phạt, hình khắc. Thiên Hình nằm trong định cách bố cục Hình Diêu Y. Nếu Mệnh các ngộ Thiên Hình, ắt Quan Lộc gặp Diêu Y. Ngược lại nếu Mệnh cách ngộ Thiên Diêu và Thiên Y ắt Tài Bạch cung gặp Thiên Hình. Nếu không nắm rõ lý tính của sao này, rất dễ luận đoán sai lầm với cách cục tinh đầu khi giao hội với bộ Hình Diêu Y. Nhóm Hình Diêu Y nhập mệnh, đa phần mang lại khó khăn. Trên tinh bàn gồm 4 nhóm sao lớn an theo Thiên Can là Kình Hao, Đà Hao, Lộc Tướng Ấn, Thanh Phi Phục. Trong đó nhóm Lộc Tướng Ấn hợp cách Hình Diêu Y. Hành tướng của Lộc Tướng Ấn chủ vượng, hành tướng của Kình Hao là công phá, của Đà Hao là chờ đợi thời cơ tới. Bốn nhóm sao lớn an theo Thiên Can đại diện cho bốn mẫu người, bốn sự thành cũng bốn sự thất bại nếu hóa hung. Cách cục tử vi thực chất khi định cách chung mô tả những tính chất riêng hướng tới khi gặp tình cảnh bất chợt, là suy tưởng ban đầu giải quyết những vấn đề gặp phải. Thất Sát ngộ Kình Hao có thể hóa cuồng, cũng có thể hóa tinh tường mà công phá giành được. Thái Âm ngộ Đà Hao có thể hóa nhu nhược, cũng có thể là sự sắc bén khi nhìn nhận vấn đề, không hấp tấp vội vàng. Bốn nhóm sao trên đều có thể đạt tới đỉnh cao của danh vọng và lợi lộc. Tuy nhiên sẽ biến chuyển theo tổ hợp Chính Tinh hợp hóa, cũng biến chuyển theo tinh đẩu còn lại khi hội họp. Kình Dương tượng là giáo mác, chủ công, Đà La là khiên đỡ, chủ phòng thủ. Thực tế mỗi nhân mệnh đều tồn tại tất cả tinh đẩu trong chính nội tâm, chỉ là hóa hiện với cường độ mạnh yếu sai khác. Cũng như nhân mệnh đều tồn tại âm dương ngũ hành trong nội thân. Phụ nữ thể hiện tính Âm, đàn ông thể hiện tính Dương mạnh hơn. Tử vi cũng vậy, xét định mệnh cát hung, còn nằm tại Nhân định, là quá trình học hỏi, tiếp kiến biến đổi một phần về bản tính. Kẻ theo đạo thường giữ được trung dung, không hành xử quá thiên kiến, biết tiến thoái kịp thời. Do vậy thực tế giáo dục rất quan trọng khi xét định một nhân mệnh. Tuy nhiên cá tính, bản tính của nhân mệnh lâu không tu dưỡng sẽ dễ thoái lui những phẩm chất rèn luyện được.
Như việc người nhập mệnh Tang Môn có thêm Diêu Y Hỏa Linh, hội Kình Hao nếu nhập cách chủ theo nghiệp quân binh, ắt rèn tính nghiêm chỉnh, tuy nhiên bản tính nhân mệnh cũng sẽ luôn tồn tại tính chất xuề xòa, do cách cục chủ mệnh kiến là cá tính tồn tại từ khi thai sinh. Sự biến chuyển này chịu thêm tác động của hành vận, đại tiểu vận tác hóa, khiến mệnh cách có thời điểm nghiêm chỉnh, nghiêm trang, gọn gàng. Có thời điểm xuề xòa, không chú trọng tiểu tiết. Điểm định cách của bố cục và xét sự biến chuyển của nội tâm khi suy xét sẽ chịu tác động của biến cố hoàn cảnh hay hành vận cơ hữu có tính biến đổi hoàn toàn cuộc sống nhân mệnh về sau. Có kẻ sinh khởi tính hiền lương, có người sinh khởi từ thiếu niên ưa sát phạt, giết mổ. Đây là điểm cốt yếu thực khởi của bản tính. Có kẻ ưa đọc sách tri kiến, đọc sách thánh hiền, có người ưa làm những việc khác. Điểm cốt yếu của cách cục nằm tại tính khởi phát của nguyên cục tức Mệnh tạo có trợ hay phá, hình thành tính cách, thói quen hành vi có lợi hay bất lợi. Kẻ ưa đọc sách thánh hiền ắt tâm sở tương ứng, người ưa giết mổ, thu nhặt lợi ích ắt ưa thực tiễn. Bốn nhóm sao an theo Thiên Can tác động mạnh tới tính cách của mỗi mệnh tạo, từ đó dự đoán tới cuộc đời của nhân mệnh. Người có trí ắt ít gặp họa, kẻ thiếu tri kiến dễ gặp tai họa. Cũng như phát sinh ra điện, nhiều trường hợp do thiếu tri kiến, tức ý định chủ quan dẫn tới tai họa tới bản thân. Người hiểu biết ưa tìm tòi, học hỏi ắt có lợi biết điều nguy hiểm, an toàn. Cũng vậy, tính cách cũng sẽ hội chiêu cảm những họa phúc, chỉ trừ trường hợp họa tới do đồng vận, như phát sinh đường xá, tai họa có thể tới tập thể như gặp nạn trên xe khách. Ảnh hưởng tương kiến của họa phúc cũng nằm tại chiêu cảm. Nếu vật ở vị trí cao, hay đặc tính có chứa kim loại dễ hút sét. Tai họa cũng vậy, nếu trong nội tâm hay nội thân chiêu cảm họa dễ gặp tai ương. Như chiêu cảm may mắn bởi cách Đồng Lương hội họp hội trợ tinh tương ngộ, hành vận tốt đẹp dễ tránh được các tai họa dù lớn. Như việc ra đường linh cảm tránh được các hiểm nguy, hay do một lý do tránh được chuyến đi tai nạn. Điều này thường xuất hiện thực trong đời sống thường ngày. Cũng như vậy, cổ nhân phân định có số mệnh, cũng luận rõ " Nhân định thắng thiên, đức năng thắng số".
Hiện tương dịch bệnh có quốc gia tức vận nước gặp nguy cấp lớn, có quốc gia tránh được phần tai họa. Trong thời điểm một địa phương, một làng hay một xã có bệnh dịch, nếu nhân mệnh có cách cục ưa do chuyển, lại hội Sát Kỵ trùng phùng khi sinh sống tại đây dễ gặp bệnh dịch tới thân. Những khuyến cáo, thông tin được những người ưa tìm hiểu, đọc sách báo sẽ nhìn nhận được mức độ nguy hiểm và sự lây lan dễ dàng của dịch bệnh. Cũng có thể nhờ tri kiến, hiểu biết do nghiên cứu, nắm bắt sớm thông tin có thể tránh được tai họa ngay trước mắt. Như việc dịch bệnh bùng phát âm thầm chưa kiếm tra, nhân mệnh tự bảo vệ bản thân, tránh tiếp xúc, gặp gỡ người xung quanh sẽ tránh được tai họa gây ra. Tuy nhiên thực tế do tính cách hay bản tính mỗi nhân mệnh sẽ phát sinh những trường hợp khác nhau. Cũng như mỗi nhân mệnh đều rõ về pháp luật, hình sự tuy nhiên mỗi thời điểm, mỗi ngày đểu có người vi phạm pháp luật. Người nghiên cứu tử vi, cái cần rõ không chỉ là xét đoán, dự đoán những biến động vận hành cát hung, mệnh cách giàu sang phú quý hay bần hàn bệnh tật. Thứ cốt yếu của người nghiên cứu tử vi toán mệnh là rõ ưu khuyết, những tai họa do bản tính tạo nên. Nhân mệnh có Sát Kình Hình Kỵ Kiếp Hổ dễ gặp tai họa hình tù do vi phạm pháp luật. Cũng vậy các cách cục luận không sai khác. Chỉ luận dễ gặp tai họa, thực tế trong các thời điểm khác nhau sẽ có các yếu tố tác động sai biệt tạo nên kết quả. Thứ nắm được cốt tủy không ngoài xu cát tị hung, cũng là sửa nhân. " Buông đao xuống đất, chắp tay thành Phật " tức về thiện tính của con người nằm ngoài khống chế của số mệnh, tuy rất khó có thể thay đổi bản tính, như việc người nghiện rượu lâu năm rất khó bỏ, do vậy sinh ra dự đoán. Tuy nhiên kẻ nghiện rượu có được trí thấu rõ và quyết bỏ rượu cũng sẽ thành. Phàm nhân mệnh đa phần ắt phải có tham muốn vật dục, ưa lợi ích nhỏ trước mắt khó thấy lợi ích rộng mở về sau, Hóa Kỵ có thể chuyển hóa rất nhiều bố cục, cũng khiến rất nhiều cách cục phản tác vi hung do vậy. Với Không Kiếp càng có tính kích phát mạnh. Thí như người vay nợ rất nhiều sẽ chịu áp lực rất lớn tới tư tưởng, khó có thể ổn định tư tưởng nhìn ra những cơ hội để khai thông thế bế tắc, tạo nên hoạch phát. Không Kiếp cũng như khoản nợ lớn của nhân mệnh, tăng liên tục khiến mọi thứ làm ra không thể bù đắp được khoản lãi, chịu tác động rất lớn của cặp sao này khi nhập Mệnh, khiến mệnh tạo khó có thể chuyên nhất, tạo đột phá. Tuy nhiên một số nhân mệnh sẽ do áp lực của nợ lớn khiến tư tưởng luôn tìm thời cơ và quyết tâm tạo đột phá dẫn tới thành tựu đột biến.
Ý nghĩa của Không Kiếp có tính Sát rất lớn, tượng cách như trên nên dẫn tới thường nhân mệnh gặp bố cục này tại Mệnh hay Hạn đều khó có thể chế hóa được toàn cục. Thường khi xét luận của lá số tử vi cũng vậy, người nghiên cứu định cách cục nắm được cốt tủy của tính chất tinh đầu khi riêng rẽ và khi giao hội là điều thứ nhất để xét định lá số tử vi. Thường cần xét tượng nghĩa cho từng tinh đầu để nắm khí hóa khi giao hội là điểm quan trọng cần lưu tâm. Có người khi có khoản nợ lớn, sinh tâm chán nản, có thể dẫn tới hành động tuyệt mệnh. Có người sinh ra tâm loạn, sẽ đi cướp, ăn trộm, phạm pháp để có tài sản trừ nợ. Có người có trí lợi dụng lách luật, tránh luật pháp để tạo ra tài sản. Có người dụng trí tạo dựng nắm thời cơ để phá thế bế tắc. Có kẻ buông bỏ, trốn chạy khỏi nhân thế. Những hướng định trên đểu có các cách cục tổ hợp tinh đẩu mang ý nghĩa biểu hiện tới cách cục này. Cũng như vậy, Không Kiếp nắm vai trò chính yếu định đoạt toàn bộ cách cục xoay quanh, do vậy cũng có sách luận sức tác hóa của Không Kiếp mạnh như chính tinh. Từ những cách giải quyết khác nhau khi lâm tình trạng nợ không thể trả lãi, chính là phản ứng của bản tính trước cách cục. Xét định lá số tử vi là tri kiến huyền học toán mệnh đã truyền từ thời cổ, có thể nghìn năm về tri kiến âm dương ngũ hành, dịch lý của tiền nhân, trải qua rất nhiều thế hệ tới hiện nay, là những thứ thực tiễn, không chủ phát huyền diệu, hư ảo, là nghiên cứu về bản tính, tri ngộ về thiên tính của nhân mệnh, xã hội, những tính cách dự đoán rõ ràng. Có thể tiền nhân kiến giải theo lập định sai biệt, tuy nhiên về dịch lý dụng Âm Dương Ngũ Hành của triết học phương Đông không thay đổi, chỉ kiến giải sai biệt dẫn tới hiểu theo ý nghĩa mù mờ sai biệt. Cũng như kinh điển của Không Tử, hậu thế có thể không bắt kịp. Thời kỳ của khoa học tây phương nắm ưu thế vẫn có giá trị rất lớn của tri kiến tiền nhân, đặc biệt trong những kinh điển về Âm Dương Ngũ Hành hay Phật giáo có thể đương đầu với khoa học hiện đại. Khởi nguyên của bản thân nhân mệnh thực tế không làm chủ hoàn toàn bản thân, không cảm nhận được ngũ tạng hoạt động, không biết rõ những sinh vật như giun sán trong cơ thể, thậm chí nếu không được học tập, dạy về hình tướng của ngũ tạng bên trong cơ thể cũng khó có thể biết hình dạng và chức năng của nội tạng. Cái bản thể của nhân mệnh khi xét định trong tử vi khởi phát dự đoán tính cách khi lập số từ thời điểm thai sinh có hoàn toàn do thân xác sinh khởi hay có tồn tại hồn phách hay không, việc trường thành, phát triển giữa thnâ xác và hồn tác động lẫn nhau tức dẫn hóa của tư tưởng, phần hồn khiến thể xác, hình tướng biến đổi theo và ngược lại có là điểm nghiệm lý hay không người viết không xét tới, chỉ xét khi nghiên cứu tử vi, phần Mệnh và Thân tác động tương tác của thế âm dương, điều nghiên cứu tập trung là định cách cục của tinh đẩu, các tổ hợp và hành vận phối hợp để xét cách cục cát hung, ý nghĩa toàn cục trên lá số tử vi.