Phàm luận vận hành lấy tứ hóa do chính tinh hóa khí kết hợp hai vòng Lộc Tồn và Thái Tuế làm trọng. Chính tinh biến dịch qua mỗi thời điểm lưu niên tác động bởi hành khí của ngũ hành thay đổi về điều dụng. Trong đó Hóa Kỵ có tác động lớn nhất. Cơ Nguyệt Đồng Lương có ba tinh đẩu hóa thành Kỵ. Cự Nhật gồm hai, nhóm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm chỉ gặp Liêm Trinh và Sát Phá Tham là Tham Lang. Phụ tinh gồm Xương Khúc. Hóa Kỵ là hóa khí mang ý nghĩa cản trở, hội hung sát là họa tới. Các cách cục như Kỵ Hình, Kỵ Kiếp, Kỵ Hỏa, Kỵ Đà hay Kỵ Kình đều tăng tính hung họa cho Sát tinh. Hóa Kỵ trong cách Cự Kỵ, Lộc Kỵ, Kỵ Triệt, thường mang ý nghĩa hung. Chỉ gặp một số trường hợp thành cách hoạch phát do phá thế bế tắc. Trong tứ hóa, Hóa Kỵ khi lưu vận theo Thiên Can rất cần chú trọng, đặc biệt khi Mệnh Thân Hạn đều gặp Kỵ hoặc thành cách Lưỡng Kỵ là hạn có xung đột, phá tán, bế tắc, nếu hội Không Kiếp, Lộc Mã đảo, Diêu Đà Kỵ là hạn liên quan tới tang tóc, họa tới. Thực tế thông thường khi gốc đại vận tốt đẹp, gặp tiểu vận trùng phùng Nguyệt Vận lưu Kỵ xâm phá hội hung sát cần lưu ý tới nhóm sao mang tính bất ngờ, phát sinh, tính động như Phi Liêm, Thiên Mã, Thiên Việt hội trùng phùng lưu phi tinh có họa tới, nếu có Không Kiếp hội họp là tai họa lớn, có thể là kiếp nạn lớn của nhân mệnh. Nguyên cục luận với hóa khí, tính chất khi lưu hóa của Hóa Lộc và Hóa Kỵ lớn hơn Khoa Quyền. Lưu Hóa Khoa có tính giải trừ lớn, tuy nhiên trong vận Sát Kỵ trùng phùng bất khả cứu, thường luận tòng Sát, tăng họa nạn. Khi luận Hóa Khoa rất chú trọng điều hậu cách cục, với bố cục Hình Kỵ, hóa Khoa khả giải, nhược bằng hội Kiếp Không Kỵ Hình tăng cường khuyết điểm, hung tai. Lưu Hóa Khoa tính chất khác Hóa Khoa, khi chỗ khuyết thiếu điều hậu, tương đồng Khôi Việt, là cách Sát trọng, thành cách thanh thế gia tăng, phá cách đa tai, nhập nơi hiểm tử. Khôi Việt bất thành cách, hội Linh Hình hoặc Hỏa Kình đều phá cách nặng, trùng phùng Kiếp Không ắt là hạn kiếp số.
Hóa Khoa khi luận cần cẩn trọng do thường xét luận " Đệ nhất giải thần", chế hóa được Hóa Kỵ và Thiên Hình thành cách cục mang ý nghĩa cẩn trọng, tránh tai họa và cản trở của Hóa Kỵ, tuy nhiên khi Không Kiếp hội họp cách cục biến hóa phản vi hung. Khi luận lưu vận, Chính Tinh và tứ trợ tinh biến hóa phức tạp, Can Chi của hành vận khiến cách cục trở nên chuyển động rõ nét của toàn bộ lá số. Lấy Chính Tinh và cách cục thủ mệnh làm gốc để luận định. Thí như đương số mệnh tạo Cự Môn độc tọa hay cách Cự Nhật, Cự Cơ, Cự Đồng đồng độ hội Kình Hao, Đà Hao là tốt. Trong trường hợp hội Kình Đà, bố cục Sát Phá Tham hoàn chỉnh hội Lộc Tồn hình thành cách cục bất mãn, khó có thể thay đổi thành tựu trong hành vận này. Trường hợp đại vận tại cách Sát Phá Tham hội Lộc Tướng Ấn tại Dần Ngọ Tuất. Tiểu vận năm Kỷ Hợi tức Lộc Tướng Ấn bản cách hội Lộc Tướng Ấn do can Kỷ hóa với Lộc Tồn tại Ngọ cung là cách cục bất mãn trong nội tâm do khó có thể phá bỏ, thay đổi hoàn cảnh khó khăn thực tại. Lại nguyệt hạn Giáp Tuất tức tháng 8 hiện tại ắt sẽ phá sinh bất mãn, cách Cự Kình thuộc Mệnh ưa thay đổi, ngay cả cách Cự Cơ hội Song Hao tới giai đoạn này cũng sẽ rất khó khăn, bế tắc trong tư tưởng. Lại hội Không Kiếp hoặc Tham Hỏa ắt mang họa phá sản, tiêu tán, do Cự Môn kỵ tới vận Lộc Tồn lại niên nguyệt hạn có Lưu Lộc Tồn tại can Kỷ cư Ngọ và can Giáp cư Dần là cách cục bại cách. Lộc Tồn gặp Lưu Lộc Tồn tính chất hiển hiện, khi cường vượng đắc cách ắt đại phúc, cách cục phá cách chủ bại. Trong tháng này đương số tạo tác, tham vọng giàu có do đại vận Tham Hỏa Triệt Đào, tiểu vận bất luận ở các cung độ, khi lưu Lộc Tồn tại niên nguyệt hạn về Dần Ngọ Tuất gặp Sát Phá Tham là thế bế tắc, ứng hợp câu phú " Lộc phùng xung Phá, cát dã tàng hung" cách. Trường hợp lưu Kỵ hoặc Hóa Kỵ nguyên cục tại đây ắt sẽ phá sản. Mệnh Thân Hạn là thể thống nhất, dịch chuyển theo Lục Thập Hoa Giáp với các Can Chi dẫn tới hóa khí sai biệt, tác động tới từng giai đoạn cuộc đời của đương số. Do vậy tiền nhân thường luận " Mệnh hảo bất như Thân hảo, Thân hảo bất như Vận hảo".
Hành vận hợp hóa của cả đại vận, tiểu vận và nguyệt vận. Lưu Hóa Kỵ trùng phùng tại đại tiểu vận, hội Sát Kỵ trùng phùng của nguyên cục là vận khó có thể thành tựu. Cách cục Lưỡng Lộc dụng để luận Tài cách cục nhân mệnh. Cách cục Vũ Phủ đồng độ nhập vận là Tài vận, hội Song Lộc. Mệnh tạo sinh năm Giáp với Lộc Tồn cư Dần, bất luận mệnh cách tọa vị trí, hành vận tới Vũ Phủ cư Ngọ nhập vận ắt hội Song Lộc. Tiểu vận năm Giáp, Kỷ, nguyệt vận tháng Giáp Kỷ lộc trùng điệp, Tài cách cực vượng ắt phát tài, hanh thông, lại như năm Giáp Thìn hoặc Giáp Thân, Giáp Tí thành cách Lộc Mã giao trì, Tài càng thêm vượng. Hoặc nhân mệnh sinh năm Kỷ, gặp tinh hệ Vũ Phủ cư Tí. Can Kỷ với Vũ Khúc hóa Lộc, có Lộc Tồn xung chiếu. Tại nội cách hội Khôi Việt tại Thân Tí, đại tiểu vận trùng phùng tại đây, tiểu vận năm Canh, Kỷ phát tài, lại năm Canh Tuất hội Lộc Mã bội Ấn cách cục càng vượng, Tài phát rất mạnh. Tiền nhân luận tinh hệ Tử Tướng thường định bố cục Tài cách khi thành cách nguyên do hình thành hai cách cục Cự Cơ Mão Dậu và Vũ Phủ Tí Ngọ là hai cách cục chủ ý nghĩa tài sản lớn. Lưu Hóa Quyền khi hóa khí có tác động giải Kỵ Hình, có thể dụng Không Kiếp hoạch phát. Tuy nhiên tác động không mạnh tới nguyên cục, trừ trường hợp tại bản cung hành vận. Hóa Quyền lưu cần gặp thêm các tinh đẩu phát sinh hoặc tăng thêm giá trị cho cách cục. Có thuyết luận tứ hóa khí là cực hóa tượng của ngũ hành qua bốn giai đoạn gồm Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đây là quan điểm khá hay khi luận Hóa Lộc ứng Xuân, Hóa Quyền ứng Hạ, Hóa Khoa ứng Thu và Hóa Kỵ ứng Đông. Việc luận ngũ hành ứng hợp là bản nguyên khí hóa của các tinh đẩu hay hóa khí, tuy nhiên cần cẩn trọng tránh việc định cách khuyết thiếu với tinh đẩu. Với Lộc Tồn là vị trí Lâm Quan của vòng Trường Sinh theo Thiên Can, luận ngũ hành Thổ có phần khiên cưỡng, tính chất chủ tích lũy, tồn tại do giai đoạn Lâm Quan tiến khí của ngũ hành, tính tích lũy này không chỉ chứa tính ổn trọng tích lũy của ngũ hành Thổ, còn chứa tính đa năng, cường vượng, chủ động của vị trí Lâm Quan khi định cách.
Khi luận cách cục đắc vòng Lộc Tồn sẽ tiến khí cho các hóa khí, lưu Hóa Khí tới cung độ Lộc Tồn tăng mạnh tính chất. Trong nhiều giai đoạn, nhiều nhân mệnh người viết về vận phát tài. Nhìn vào Lộc Tồn và Hóa Lộc trong cách cục Lộc trùng điệp lưu tới là tiền tài thuộc thiên lộc hay dịch lộc. Tài sản do bạo phát cách khởi từ nhân mệnh dụng Tài hình thành khi bản cách cục cần gặp cách cục Tài vượng cố định, hoặc quan sinh lộc hậu. Kế tới hành vận lưu tới Tài cách là bố cục phát lâu dài. Tiền tài có thể nhìn từ điền sản, tài sản lưu động, hoặc ám tài. Trong đó cách cục quan sinh tài là cách cục Tài Quan lưỡng vượng đứng đầu. Ám tài là thứ cách. Ám tài cách do Sát cách thành lập khả năng hoạch phát lớn, nhanh chóng do ứng hợp. Đặc biệt cách cục Đồng Lương hội Không Kiếp Song Lộc là bố cục thường thấy đắc trưng cho cách cục này do tính nhanh nhạy của Không Kiếp, cường vượng của Lộc Tồn. Tính chất của Lộc Tồn khác biệt với Hóa Lộc. Lộc Tồn là tích tụ, cường vượng, bản chất của Thiên Can tới địa bàn của lá số. Hóa Lộc là khởi lộc, phát triển khởi từ nguyên căn của Chính Tinh, mang tính chất của Chính Tinh. Tính chất của Lộc Tồn khởi từ Thiên Can bao gồm cả cách cục Lộc Tướng Ấn Bệnh, có tính chất tác động hiển lộ mạnh hơn Hóa Lộc. Khi Song Lộc hình thành không gặp phá cách tượng bố cục sinh khí cực vượng. Hội Thiên Mã tài động, là cách cục đứng đầu về Tài cách do tính chất luân chuyển thu được lợi lộc. Lộc là thăng tiến, phát triển, nghịch với suy bại. Trái với bố cục tài động của Cự Cơ ngộ Song Hao hoạch phát do thời vận, là thời cơ lớn đắc tài do khai thông thế bế tắc của Cự Cơ Đồng, Vũ Phủ hội Lộc Tồn hình thành tại ba can Đinh Kỷ Quý, Song Hao cư Mão Dậu ắt Lộc Tồn cư Tí Ngọ. Trong các cách cục Tam Kỳ gia hội, bố cục tại can Giáp kém hay hơn cả. "Thiên Đồng cư Tuất địa, Đinh nhân phản vi kỳ cách".
Cách cục Thiên Đồng cư Tuất, đối cung có Cự Môn hóa thành Kỵ, nội cách hội Tam Hóa với Âm Đồng Cơ. Kích phát từ bất mãn bên ngoài, Sát cục hình thành, Cơ Nguyệt Đồng Lương hóa thành quyết chí vượt hơn người. Giáp Khôi Việt tại Dậu Hợi. Tại đây hay do gặp Lộc Tồn cư Ngọ hội tăng cường bố cục Tam Hóa, do vậy luận phản vi kỳ cách. Nếu Thiên Đồng cư Thìn không luận vậy. Cách cục Đồng Âm cư Ngọ gặp Âm Dương ở vị trí không mấy hay, cũng hội Tam Hóa Lộc Tồn tuy nhiên không bằng. Trường hợp cư Tí tuy ngộ Phi Liêm, có Lộc Tồn chiếu khá tốt. " Đồng Âm đồng cư Tí, tuổi Bính Đinh phú quý trung lương". Can Giáp chỉ gặp Tam Kỳ gia hội khi Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham thành cách cục xung đột, mâu thuẫn trong nội cách. Thực tế tại đây Khoa Quyền Lộc do Liêm Phá Vũ hóa thêm Khôi Việt cư Sửu Mùi tuy nhiên khó có thể thành tựu lớn như cách cục trên. Khi nghiệm lý, mệnh tạo cách cục này nếu xuất ngoại có thể hanh thông. Khi luận tứ hóa hay bố cục Sát cách, nếu lưu trùng Tứ Hóa tại niên và nguyệt vận tới cách cục sẽ tạo tác động rất lớn, cần chú ý tới Lưu Kỵ. Cách cục Kiếp Hỏa Việt tại bản cung đại vận hoặc tiểu vận khi lưu Hóa Kỵ nhập cung trùng phùng thiên can của tiểu vận và nguyệt vận ắt kích phát Việt Hỏa dẫn tới tai họa sẽ đến nhanh chóng, có Thiên Mã là tai nạn xe cộ, có Cơ Kiếp Hỏa là hỏa tai, có thêm Phi Linh Hình là vật kim khí hoặc điện sét tới người, trong đó cách Khôi Việt Linh Hình Kiếp Không nhập vận, có Lưu Kỵ và Phục Binh nhập cung, nguyệt hạn lưu tới bố cục này chắc chắn sẽ trúng họa tới thân thể.
0 comments:
Post a Comment