Trời Đất có họa phúc, con người có thời vận. Tử vi đông a trọng khí hình ứng hợp với trợ cách. Nắm được thời vận nghiệp rồng còn khả, huống tới phú quý thường tình.

Trong tử vi có bốn nhóm sao lớn gồm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật. Phân hạng người ngoài xã hội không ngoài bốn thứ vậy.

Một lá số tử vi hàng vạn người cùng giờ sinh vậy. Cũng như gieo hạt giống, phát triển biến hóa vô cùng tùy hoàn cảnh bên ngoài ứng hợp. Sinh trụ dị diệt cùng sở đích nhưng tùy khác biệt ở mức độ. Vòng khởi nguyên của mệnh số là vòng chuyển dịch, do biến đổi liên tục nên không có số phận.

Wednesday, August 21, 2019

Một lá số nữ mệnh cách cục Tử Phủ cư Dần

Khi luận hành vận của lá số tử vi điểm quan trọng là phân định cách cục của Mệnh khởi ban đầu và cung an Thân tác động biến dịch qua các hành vận, do đó nếu không luận cách cục theo tiến trình từng đại vận người luận sẽ gặp sai lầm khi xét một đại vận riêng rẽ. Đại vận thứ nhất chính là vận nhập Mệnh cung, khởi phát bản tính nguyên căn và bố cục toàn bộ tinh đẩu chịu ảnh hưởng của khí hình gốc phát khởi, qua các đại vận tính chất của các tổ hợp sẽ thay đổi liên tục khi ứng hợp với từng giai đoạn thực tế vượt qua của cuộc đời, thường người nghiên cứu tử vi luận số dụng Thần Khê Định Số xét khí hình ứng bởi tướng số. Bởi tướng số của nhân mệnh chính là lưu khí hình từ giai đoạn khởi phát sinh mệnh quá khứ tới giai đoạn hiện tại biểu hiện. Tử Vi Đông A xét khởi khí hình gốc bởi định bố cục Sát ban đầu và ứng hợp bởi các hạn quá khứ tương ứng các tổ hợp tác hóa. Tử Phủ nhập vận, ngộ Khoa Hồng Đà Diêu Bệnh hội Vũ Không Hình Tuần và Liêm Tướng Đào Triệt. Tử Phủ có Khoa Hồng bản cung sắc diện tốt đẹp, đặc biệt khi hội Đào Triệt Tướng tức sắc diện mang ý nghĩa lộ ra bên ngoài, có khả năng thu hút. Tử Phủ bản cung bất ngộ Không Vong tuy nhiên hội chiếu Tam Không thành cách, chủ cuộc đời gặp nhiều thăng trầm, tuy nhiên cách cục thành cách, có phần khuyết điểm chủ bất ổn trọng, cũng mang ý nghĩa họa khó quan phòng. Tính chất của nhóm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm giao hội bởi Tử Vũ Liêm và Phủ Tướng, cách cục Tam Không cản trở bố cục Phủ Tướng chủ khó có thể kế thừa, cũng chủ bên trong nội bộ lộ bí mật, tức Tử Phủ cách cục được bảo hộ, là cách cục khai sáng mạnh thành đứt đoạn, gặp nhiều biến cố không ngờ mang ý nghĩa xấu do Vong tinh kỵ gặp Tử Vi và Thiên Phủ. Cung an Thân cách cục Tham Hỏa Kình trong thế Tham Vũ Thìn Tuất hội Phá Kiếp Khôi Việt đắc vòng Trường Sinh là cách cục mang ý nghĩa khá tốt đẹp, chủ cát hóa tới bản tính, tức mệnh cách. 





 Cung an Thân là khí hóa của tư tưởng, suy nghĩ thành hành động, khác với Mệnh cách chủ bản nguyên của tư tưởng, khởi phát từ vô thức, luôn tồn tại trong mọi hoàn cảnh, thường luận là tiềm năng, tính ẩn. Tử Phủ Đà Hồng Khoa có khả năng kiềm chế tốt, Khoa Hồng tăng tính chất, năng lực khai sáng cho Tử Phủ, cũng chủ là cách cục mang ý nghĩa chủ to lớn, khi hành vận kích phát chủ lý tưởng lớn, tuy nhiên với mệnh nữ đa phần chịu tác động của Liêm Tướng Đào Hồng, chủ tình duyên cách hơn về tham muốn Tài Danh như nam mệnh. Cách cục tại cung an Thân Tham Hỏa Kình Kiếp Sinh Vượng là cách cục rất tốt đẹp, nữ mệnh đắc Tài cách, hành vận cũng lưu qua bố cục này mà khí hình vận trở nên cường vượng, Kình Kiếp thành bạo phát cách. Nếu lá số này là nam mệnh ắt phát đại phú. Đà Khoa chủ khả năng mô phạm, Tử Phủ có tính chất quản lý, khả năng giải quyết công việc do sự giao hội của hai nhóm sao chỉ huy, quyết đoán, có khả năng phán đoán, dò xét do Tử Vũ Liêm và chủ dụng tình cảm, tính tương trợ của Phủ Tướng. Cách cục Tử Phủ Vũ Tướng Liêm là bố cục cân bằng, Sát tính không lớn như Sát Phá Tham thiếu khả năng dụng tình cảm trong nội bộ để giải quyết công việc. Tử Phủ cách cầm thiết gặp Tả Hữu là hai trung tinh mạnh có sức phò tá đắc lực, tuy nhiên tại bố cục thiếu cặp Tả Hữu lại hội Tam Không Đào Hồng nên có khuyết điểm. May mắn cung an Thân cách cục Tài cách rất vượng cát hóa. Đại vận thứ nhất qua cách cục Tử Phủ, gặp nhiều việc không ngờ với dự tính, năng lực Tử Phủ khá tốt, tuy nhiên bố cục biến hóa theo khuynh hướng tình duyên, Khoa Hồng Tuần gặp Tử Phủ khi gặp đại vận hoạch phát ắt thành tựu rất lớn, gặp vận xấu họa cũng gia tăng. Do đó luận cách cục bất ổn định. Đại vận thứ nhất có Khoa Đà thiên tính hinh thành chủ ưa việc lý lẽ, có khả năng kiên nhẫn, không vội vàng phán xét. Nhập cung vận thứ hai tại Mão cung, cách cục Thái Âm độc tọa cư Mão trong bố cục Âm Dương Lương với Âm Dương lạc hãm khi Dương cư Hợi, Âm cư Mão, chủ phát triển sẽ có phần chậm trễ. Bản cung Thái Âm ngộ Kỵ Cáo Tồn Tang hội Dương Ấn Mã Tuần và Lương Quyền Triệt, Âm Dương Lương hình thành, hội Lộc Mã bội Ấn cách, Thái Dương nhập Hợi cung có Tuần cát hóa khiến Âm Dương Lương có phần tốt đẹp, hiềm nỗi cách Kỵ Tồn hội Âm Dương lạc hãm khó khăn, cản trở tới thường nhiều khi nhập vận thứ hai. 




Lộc Mã giao trì hình thành kích phát bởi Tham Hỏa Kình có tham muốn về Tài cách là cách cục tốt. Đại vận thứ hai, cách cục chủ bình hòa, nữ mệnh nhập vận Thái Âm chủ âm nhu, cũng chủ tình duyên tới trong vận này. Đại vận Âm Dương Lương có bất mãn trong nội tâm và các mối quan hệ xã hội do Tồn Kỵ Tang hình thành, tuy nhiên cũng là đại vận chủ tăng khả năng giao tiếp rất cần thiết với Tử Phủ cách để thành tựu khi không gặp trợ tinh phò tá. Sự giúp đỡ do mối quan hệ và khả năng giao tiếp rất quan trọng, tuy Âm Dương tại vị trí không mấy sáng, dẫn tới cuộc sống, ngày tháng khó có thể vui vẻ, tươi sáng, đa phần chủ chống lại các khó khăn khiến bố cục tăng tính trầm ngâm, Đà La tác hóa mạnh trong bố cục, chủ mang tính chịu đựng nhiều hơn với giải quyết các khó khăn. Bố cục này do chỉ gặp bố cục Kỵ Tồn, Lộc Tồn gặp Thiên Mã thành cách cục tốt chủ tính linh hoạt, khả năng giải quyết công việc, nghị lực vượt qua bế tắc. Đại vận Thái Âm là vận âm thầm vươn lên vượt qua khó khăn. Qua hành vận Thái Âm, nữ mệnh nhập vận Tham Lang độc tọa cư Thìn từ 25 tới 34. Đây là đại vận hoạch phát do cách cục Sát thành cách. Tham Lang độc tọa cư Thìn, đối cung là Vũ Khúc cư Tuất, Thất Sát cư Thân và Phá Quân cư Tí hội chiếu là các vị trí tốt đẹp của Sát Phá Tham. Tham Lang nhập vận Sát tính không lớn, do đó sẽ gặp ít tai họa tới bản thân, bản cung ngộ Tham Hỏa Kình hội Khôi Việt Kiếp Đại đại đắc vòng Trường Sinh, Phúc cung lưu vận nhập Mộ địa, đồng cư cung an Thân tức hưởng phúc từ dòng họ, chính cách cục này có sức bạo phát lớn. Hiềm nỗi mệnh cách Tử Phủ Đà Khoa hội Đào Hồng có tính chất chủ âm tính lớn, lại hình thành Đào Hoa cách, mệnh cách là mệnh nữ, khi đại vận tới cung độ Tham Lang tính chất Đào Hoa kích phát, khiến bố cục chỉ thành tựu một phần. Đà La từ thế bị động chống đỡ khó khăn trong vận Thái Âm độc tọa cư Mão khi lưu tới hành vận Tham Hỏa Kình tuy tham muốn Tài cách lớn nhưng không đủ táo bạo, quyết tâm khởi tạo, khai sáng. Tuy nhiên trong hành vận Thái Âm, nữ mệnh thành cách Lộc Mã giao trì có tính linh hoạt, đại vận Tham Lang ắt có thành tựu, trợ lực từ Phúc cung là cách cục cực vượng, chủ không gặp tai ương họa hại tới thân. Mệnh cách Tử Phủ hội Tam Không bản chất bố cục mang ý nghĩa khó có thể quyết tâm với một lý tưởng, do chính Tam Không là những vấn đề không ngờ bất ngờ vượt quá dự đoán, khả năng của bản thân. Tam Không cách là sự giao hội của Triệt, Tuần, Thiên Không. Bản cung Tử Phủ lại là Đà Khoa, tuy có tính mô phạm, khả năng hiểu biết sâu về vấn đề khám phá, tuy nhiên tại đây lại là những nhận định có phần khiên cưỡng, có khuyết điểm. Tử Phủ gặp Đà La, không có Tả Hữu tức là cách cục cô quân. Đa phần mệnh cách Tử Vi đều gặp khuyết điểm này. Tổ chức của Tử Phủ là kế thừa, kế tục từ Phủ Tướng tức mang ý nghĩa nối tiếp chức vị, nếu không ắt cần có kẻ phò tá đắc lực do chính Tử Phủ thường ưa suy nghĩ, không cương quyết như Sát Phá Tham hay Cự Nhật. Cũng Tử Phủ khi hội Tam Không có Đà Hao càng gia tăng khuyết điểm này. Trong hành vận Tham Lang chỉ có thể chế hóa một phần do bản chất Hỏa Kình Kiếp sát tính rất mạnh, với mệnh nữ khó có thể dụng. Tử Phủ gặp một khuyết điểm thứ hai  dẫn tới yếu thế hơn vị trí Tử Vi độc tọa cư Tí Ngọ do tính chất của Thiên Phủ tuy tăng tính cẩn trọng, cũng tăng tính phán xét, xét đoán cẩn thận. Tuy nhiên tính chất  này trở nên phần bất lợi khi không gặp Phụ Bật để thành cách " Tả Phủ đồng cung nhất hô bách nặc". Tham Kình Hỏa Kiếp trong hành vận này mang khuyết điểm do Tử Phủ Đà khó có thể khai phá lớn do tham muốn bản thân, ảnh hưởng từ thế chống đỡ khó khăn từ vận Thái Âm. Trong đại vận Cự Môn với bố cục Cự Thanh ắt sẽ khởi tạo cái mới, đây là vận thành tựu lớn của nữ mệnh do tất cả bố cục Sát đã cát hóa. 





Trong hành vận Tham Lang gặp cách Sát Phá Hỏa Hao có Kình Kiếp là cách cục chịu nhiều áp lực khi hướng tới Tài Danh, đè nén. Tham Lang khởi vận kích phát lý tưởng của Tử Phủ, trong cách cục Tử Phủ tại Mệnh cách hướng tới tình cảm gia đình nhiều hơn Tài Danh, bố cục này cản trở Tài cách, nữ mệnh gặp bất lợi với tình duyên. " Hỏa Tham tương ngộ danh trấn chư bang". Do Hỏa Tinh ở vị trí sáng, ngộ Kình Dương trong cách Kình Đại càng tăng tính chất quyết đoán trong công việc với nữ mệnh. Với nữ mệnh lại là khuyết điểm, do Sát Phá Hỏa Hao có tính phẫn uất, nhập cung độ La Võng khiến Tham Lang với Tài thì tương đối ổn trọng, với tình cảm bất lợi. Nhóm Sát Phá Tham hoàn chỉnh khi hội Sát Kỵ có khuyết điểm là tính bộc phát của Hỏa Hao, khi thành cách với Quan Cách và Tài Cách đều mang ý nghĩa nhiệt huyết tuy nhiên thiếu cẩn trọng, mệnh cách Tử Phủ Đà Khoa bổ khuyết, sức chịu đựng lớn, tuy nhiên tính thận trọng khó có thể duy trì do bản chất Tam Không hội chiếu Tử Phủ khiến cuộc đời gặp những bước ngoặt không ngờ tới, có hoạch phát công danh, tuy nhiên cũng có những tai họa trong cả công danh và tình cảm, với cách cục tình cảm Sát Phá Hỏa Kình có tính cương quyết lớn, bố cục Sát Phá bất lợi cho tình cảm do một phần bản thân trong hành vận tính cách chịu tác động của Hỏa Kình khi nóng nảy kích phát, dẫn tới cự cãi. " Cự Hỏa Kình Dương chung thân ải tử" cũng do Cự Môn là thị phi tinh, chủ cự cãi. Bố cục Tham Lang nhẹ hơn khi Tham Hỏa thành cách, tuy nhiên lại hội Hỏa Kiếp Kình hàm chứa tai kiếp, tai họa tại đây. Tai họa liên quan tới cả Thiên Di tức bên ngoài, liên quan tới Phúc cung tức dòng họ. Phối cung Phá Kiếp Đại Hao là cách thay đổi, dễ phá bỏ, thay đổi tình cảm, Tử Phủ tại mệnh nếu ổn trọng có thể phá thế cục này, tuy nhiên mệnh cách cũng rơi vào thế bất ổn do Tam Không hội họp, nếu kết hôn muộn thì tránh được một phần hình thành do đã qua hành vận. 







Khi qua đại vận Tham Lang cư Thìn, nữ mệnh lưu tới cung vận Cự Môn độc tọa cư Tị trong cách cục Cự Cơ Đồng tại hành vận từ 35 tới 44. Khí hóa của hành vận Tham Hỏa Kình thay đổi rất lớn trong tư tưởng và lý tưởng của cuộc đời, tham muốn Tài cách kích phát hành vận Cự Môn. Mệnh cách Tử Phủ nhập đại vận này ắt sẽ khởi tạo, thành lập một tổ chức là hợp cách. Cự Môn ngộ Thanh Long trong cách cục Cự Cơ Đồng hội Tả Hữu Xương Khúc Tuế Phượng Lộc. Cự Thanh và Đồng Linh đồng độ có Tả Hữu Xương Khúc Lộc, trợ cách rất mạnh với bố cục Cự Cơ Đồng. Nữ mệnh cách Tử Phủ đồng độ khi lưu tới hành vận Tả Hữu Xương Khúc rất cần thiết, lại có Thai Tọa, hiềm nỗi nhập Tuyệt địa, lại cách cục Cự Cơ Đồng ở vị trí không mấy hay giảm độ số một phần. Đại vận này là vận đắc cách, hành vận nữ mệnh qua hai vận đều đắc Tài Quan cách, trong vận này hoạch phát công danh. Cự Cơ Đồng bản chất là mâu thuẫn nội bộ, xung đột, khi tốt khai thông thế bế tắc. Tại đây hình thành cách Quế Sứ Hoa Thương tuy nhiên không đáng ngại. Cự Môn nhập vận ắt có thị phi, tuy nhiên được trợ giúp rất đắc lực của Lưỡng Long và Phụ Bật, hợp cách khởi tạo cái mới. Thiên Cơ hóa thành Lộc, Tuế Hổ Phù hội Khúc Xương là quan điểm, Tham Hỏa Kình cư cung an Thân là kế hoạch và hành động. Cự Môn nhập vận phát danh trước tới tài sau. Nữ mệnh trong hành vận này lưu tâm tới công việc, khai thông thế bế tắc trong nội bộ ắt đạt được công danh lớn. Tiểu vận năm Kỷ Hợi, đại tiểu vận tại bố cục Cự Cơ Đồng, tiểu vận tại Đồng Linh Phi Phượng là cách linh ứng, do Đồng Linh cách là cách cục đặc biệt trong tử vi, có sự giúp đỡ do Tả Hữu. Tuy nhiên do Văn Khúc hóa thành Kỵ hình thành bố cục Cự Kỵ Phi Liêm mang tính thị phi, Tam Hóa không lưu tới bố cục Cự Cơ Đồng, thực tế năm này có thể tăng xung đột, khi hình thành cách Đồng Linh Phượng là khai thông, năm này hướng tới thờ phượng là phù hợp, ắt có linh ứng. Tiểu vận năm Canh Tí gặp cách cục Thất Sát ngộ Trường Sinh trong bố cục Tham Hỏa Kình và Phá Kiếp hội, đây là cách cục khá tốt đẹp, chủ đoạt được, tranh đoạt có lợi, Thất Sát nhập Trường Sinh khí hóa cực vượng, đại vận Tuyệt xứ phùng Sinh là tốt. Tiểu vận năm Mão Ngọ Mùi phát danh, đặc biệt năm Mão, trong năm Ngọ chủ vui vẻ. Tiểu vận năm Thìn trong đại vận này rất quan trọng là vận thành tựu về Tài cách, đây là năm hoạch phát của nữ mệnh. Với năm Tị gặp vận Âm Dương Lương Tồn Tang Kỵ bất lợi với hành vận Cự Môn, chủ nhiều bất mãn, khó khăn với mối quan hệ xã hội trong năm này

Thursday, August 15, 2019

Luận sinh tử hạn toán mệnh cách.


Thực tế luận sinh tử, về hành vận nhập tử địa không có cứu giải đa phần không phổ biến ra bên ngoài trong các nghiên cứu của tiền nhân. Khi người nghiên cứu tử vi nghiên cứu sâu về độ số hạn tử tuyệt ắt nhìn thấy sự huyền diệu của toán mệnh và thường lầm tưởng việc số mệnh sắp đặt với mỗi người. Luận sinh tử cách thường luận kinh nghiệm là chính do tiền nhân thường không lưu lại về thể tính của vận tử tuyệt, thứ tới do khí hình Sát không tương ứng giữa mỗi nhân mệnh khi ứng hợp với từng hoàn cảnh sống khiến bố cục Sát biến đổi tương ứng. Như gặp cách cục Cự Nhật Ấn Kiếp Hình Kỵ Khốc. Thường các lá số với bố cục này hình thành tại Mệnh hoặc đại vận thứ hai là cách cục phụ mẫu ly tán. Tuy nhiên để luận nguyên do vận tử tuyệt hoặc do bất đồng dẫn tới cự cãi, ly tán cách phức tạp. Với bản thân nhân mệnh nếu đã nghiên cứu tử vi luận cách cục hạn chết sẽ thường có thể luận tới đại vận, tuy nhiên với tiểu vận thường khó có thể luận do tính đề phòng của tư tưởng khi tới hành vận tử tuyệt dẫn tới khó chính xác hơn. Cũng như khi luận tử vi tới vận hạn phá sản của đa phần mệnh cách khi tới bố cục Vũ Sát, Vũ Phá hội Sát Kỵ trùng phùng thường khó có thể thay đổi cục diện do tính chất đặc trưng ảnh hưởng bởi hóa khí của tinh đẩu tác động rất lớn tới nội tâm tư tưởng. Thí như nhân mênh có tâm tính chủ nóng vội, ưa mạo hiểm, lại thường không có mắt tinh tường, việc tính toán ắt theo nghiệp kinh thương ắt họa tới sớm hoặc muộn, dù ban đầu có tài sản rất lớn ắt sẽ phá tán. Thất Sát tại đây chính là nhầm lẫn, trái với tinh tường. Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham là sự rối ren, tranh đoạt, xung đột giữa tính chất của hai nhóm sao, luôn bất ổn và hàm chứa tai họa từ việc giao hội không có Phủ Tướng. Người viết khi nghiên cứu tử vi nguyên cớ ban đầu ưa sự tinh diệu xét đoán số mệnh khí sinh tuyệt làm lý tưởng để nghiên cứu huyền học toán mệnh. Hạn sinh tử hoặc tuyệt khí thường dụng để tránh đề cập trực tiếp tới chữ hạn chết, tử mạng. Nhân mệnh đã có sinh ắt phải diệt, tuy nhiên như việc bản thân mắc bệnh nan y ắt tác động mạnh tới tư tưởng, nội tâm là khổ cực. 





Thất Sát là Sát Tinh, là một trong số ít Chính Tinh bản chất chứa Sát tính. Trước đây thường phái luận Tử Vi Đông A khán hạn sinh tử hoặc ly tán của phụ mẫu để định cách cục Sát, tuy nhiên thực tế tại đây có khuyết điểm do tính chất của cung độ đệ tam nhân khi xét bản khí của chính nhân mệnh có một phần sai biệt, nhân thân không phải bản mệnh, khí hóa của Sát cách của bản mệnh tác động có phần khác với khi xét hạn phụ mẫu. Khí số của phụ mẫu cực vượng có thể thoát nạn tai kiếp do trùng phùng Sát Kỵ, tuy nhiên mệnh của bản thân đương số khi lưu tới hành vận bố cục Sát Kỵ trên có thể tuyệt khí. Nếu mệnh cách gặp bố cục Tang Hổ Hư phùng Sát Kỵ , hành vận tới cung độ Cự Nhật có Tồn Hồng Kiếp ắt phụ thân trong gia đình có tai kiếp họa lớn, nhược bằng lại thêm Phượng Khốc hội Quế Sứ Hoa Thương cách, tiểu vận trùng phùng Sát Kỵ, ắt là vận phụ thân hoặc bản thân tuyệt mệnh, hoặc bệnh nan y. Cách cục Cự Kỵ Linh Hình hội Việt trong bố cục Cự Cơ Đồng nếu hội thêm Lộc Tồn thì bản thân dễ mắc bệnh tật nguy hiểm ảnh hướng tới họa sát thân. Thực tế người nghiên cứu tử vi hoặc môn toán mệnh nhìn sự sinh diệt của kiếp số lặp lại liên tục qua các cuộc đời luận, thấy số mệnh dường có dường không. Phú quý thọ yểu. Chữ yểu tỉ lệ gặp không nhiều, trừ trường hợp hội Sát Kỵ Hình trùng phùng, hoặc thành cách cục khí hình suy tuyệt khó có thể cứu giải, hoặc ứng hợp khí số của vận nhà, vận làng, vận nước. Thực tế Hóa Kỵ cố định do Thiên Can năm hóa khí thành tính chất Sát không lớn như trường hợp lưu Kỵ hóa do Thiên Can của tiểu vận. Bất kể các bố cục, nếu hình thành cách Hóa Kỵ cố định gặp lưu Kỵ trong trường hợp đại tiểu vận trùng phùng cách cục này, lại bất hội trợ tinh cát hóa, ắt sinh tai họa rất lớn. Hóa Kỵ nếu xét tính chất tác động khi lưu hóa tới tiểu vận sức tác hóa rất lớn, trong khi bố cục Không Kiếp tác động mạnh tại cách cục cố định, phối hợp các tinh đẩu kỵ gặp tác hóa mới lớn. " Kiếp Không Phục Binh phùng Dương Nhẫn lộ thượng kiếp đồ". 





Trước đây khi hành pháp và phương tiện quan sát, ghi trữ chưa thực phổ biến, các vị trí nguy hiểm tức trên đường lại mang họa rất lớn với các bố cục. Tại đây Không Kiếp là bất ngờ, là cặp chủ tai nạn trừ một số trường hợp. Việc gặp cướp đường, thổ phỉ rất thường gặp. Thiên Mã trong cách Tang Hư Mã nhập Tuyệt địa. Trong nội ý nghĩa của cách cục Tang Hư Mã Khách có một tính chất đặc biệt, hàm ý chủ tang tóc do Tang Môn tạo ra, khi cát hóa mang ý nghĩa nghị lực, vượt qua nghịch cảnh. Khi xấu chủ tượng là cửa tử. Bố cục Sát như con dao hai lưỡi, khiến mệnh tạo có thể thành tựu đột biến, tạo bất ngờ lớn cho kẻ khác. Cũng có thể khiến nhân mệnh gặp họa sát thân. Quan trọng là tính chất ứng hợp. Có mệnh cách khi hoạch phát liền gặp tai ương tương ứng, có người đang ổn định cuộc sống bất ngờ gặp tai kiếp, có kẻ làm những việc bất chính, gây tai họa cho người khác để thu lợi cho bản thân, có người nhờ may mắn phát dã như lôi. Cùng một tổ hợp biến hóa vô cùng. Thâm trầm cũng là Hóa Kỵ, nhìn nhận vấn đề đa chiều để giải quyết vấn đề bế tắc là Hóa Kỵ, cho tới thủ đoạn cũng là Hóa Kỵ. Hóa Kỵ còn là thiên tính thiện lương. Chính Tinh chủ mệnh khiến các bàng tinh giao hội biến đổi tính chất theo khuynh hướng của Chính Tinh. Một số người nghiên cứu tử vi kết hợp tướng số là thường gặp để xét khả năng thành tựu và ứng hợp vượng suy của mệnh cách. Tuy nhiên thường biểu hiện tại diện tướng nếu không tinh thông tướng số thường chỉ định Sát cách được một phần. Khi định cách bố cục Sát trên thiên bàn thường khán hạn quá khứ các sự kiện để xét cách cục để phân định khả năng chế hóa của bản mệnh. " Hỏa Linh cư miếu vượng danh chấn chư bang". Hoặc câu phú luận. "Hỏa Tinh Linh Tinh chuyên tác tọa, ngộ Kiếp Không Thiên Sứ họa trùng trùng". Tiền nhân luận phú theo từng khí hóa của bản mệnh với Hỏa Tinh, các câu phú thường như trái nghịch. Phú luận thường hướng tới một bố cục đã xác định. ""Đất tứ mộ Linh Tinh Tham Vũ. Có uy quyền chớ ngộ Kình Dương". Tứ mộ tức ở cung độ Thìn Tuất Sửu Mùi. Tuy nhiên Vũ Tham tại vị trí Thìn Tuất xung chiếu, mệnh Vũ Khúc khác hoàn toàn mệnh Tham Lang. 






Tại cách cục này là vị trí Vũ Tham cư Sửu Mùi. Cách cục thuộc Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham là cách phân tranh, xung đột, trong nội cách hàm chứa tính biến loạn, tức ứng hợp với thực tế bên ngoài mệnh tạo thường gặp hoàn cảnh thay đổi, không ổn định. Trong cách cục lớn do Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham tùy thế đứng của tinh đẩu trong các tinh hệ lại phân thành các cách cục riêng biệt. Vũ Tham cư Sửu Mùi thuộc tinh hệ Tử Sát Tị Hợi. Tham Linh tịnh thủ cách hình thành khi Tham Lang đồng độ Linh Tinh chủ tham vọng về quyền lực, có Vũ Khúc đồng độ Tham Lang rất cần thiết khi Vũ Khúc chứa tính chất bạo lực, có năng lực giải quyết vấn đề, khi Vũ Tham Linh hình thành hóa thành Quyền, chứa Sát tính lớn, đây là mệnh cách chủ tham vọng lớn và có năng lực, quyết đoán với mục tiêu bản thân. Tại bố cục Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham, Tử Sát hình thành khi Vũ Tham Linh hội Kình Dương thành cách Kình Linh có tính thái quá, cũng chủ chiết giảm tính linh hoạt của Tham Vũ, tăng cường tính biến động, bất mãn do Kình Hao, cũng chủ ưa chống đối. Cũng bố cục này nếu hội Xương Đà thành cách Linh Xương Đà Vũ mang oan khốc tới bản thân. "Linh Xương Đà Vũ hạn chí đầu hà". Với cách Vũ Tham tại đây trước khi gặp họa ắt sẽ thành tựu hoạch phát, tuy nhiên Tử Sát là nhầm lẫn, đè nén ắt gặp giai đoạn bại cục dẫn tới chữ mất, trừ Sát Kỵ giao hội trùng phùng sẽ tuyệt khí, trường hợp còn lại khi hình thành cách Vũ Tham Linh Xương Đà cũng không mấy khó khăn để vượt qua. Bố cục Linh Xương Đà Vũ là cách cục đặc biệt trong tử vi, thành cách do Linh Tinh. Cách cục Linh Xương Đà Kỵ ý nghĩa khác với Linh Xương Đà Vũ. Tùy từng bố cục chính tinh giao hội cũng mang ý nghĩa khác nhau, tuy nhiên khi hình thành cách cục này, trừ tinh hệ Tử Vi cư Ngọ và Vũ Tham Sửu Mùi, các cách cục khác nếu không gặp trợ tinh Quyền hoặc Khoa ắt họa tới do đây là bố cục cung trọng điểm. Nếu có thêm Kỵ Hình là cách cục rất độc, hung hiểm lớn. 






Một mệnh cách Vũ Tham rất trẻ tuổi mệnh cách Vũ Tham Linh Hình Khốc hội Lộc Mã giao trì, gia đình nông dân, khởi sự có phần khó khăn do điều kiện hoàn cảnh, đương số sau khi tốt nghiệp đại học đi buôn vải, sau đó gặp thời vận mở rộng kinh doanh, chỉ 27 tuổi đã có 2 công ty lớn gồm một công ty về phân phối thực phẩm và một công ty về xuất khẩu nông nghiệp, có uy tín lớn trong địa phương. Đại vận năm 33 nhập vận Cự Nhật Kỵ Kiếp Hồng Tuyệt, tiểu vận Sát Kỵ trùng phùng gặp tai kiếp nặng bệnh ung thư, cùng đại vận này kinh thương có phần khó khăn, họa vô đơn chí. May mắn vượt qua, tới hành vận Quan Lộc gặp cách cục Liêm Phá, tật ách tái phát, nhập tuyệt địa. Hành vận thứ ba trải qua tuy nhiên để tác động rất lớn về sau. Đó là khí hình vận của mệnh cách. Khi luận tử vi, điều kỵ gặp là luận vận tử tuyệt tạo tác động lớn tới tư tưởng của nhân mệnh. Do Vũ Tham hình thành cách cục tốt, chủ phát phú cách, tuy nhiên bố cục này cũng hàm chứa tai họa, do tham vọng nên mệnh tạo có phần chủ quan với sức khỏe của bản thân, khi Sát vận trùng phùng, ứng chữ bộc phát tai kiếp lớn, cũng chủ bất ngờ, không thể kháng cự là ý nghĩa của Cự Nhật. Sát vận hình thành hoặc bố cục Sát chế hóa tại Mệnh cách có thể tạo sức kích phát rất lớn, tuy nhiên cũng mang lại tai họa khi cách cục ứng hợp Mệnh Thân Vận xấu. Sát tinh hình thành bố cục hội họp sẽ kích phát khi có các tinh đẩu chủ bộc phát, phát sinh, nếu chỉ gặp Không Kiếp Hình Khốc tại Mệnh cũng không đáng ngại, tuy nhiên nếu giao hội Khôi Việt hoặc Hóa Kỵ tại đây ắt dễ gặp biến cố tai kiếp trong cuộc đời khi hành vận nhập Sát vận. Đặc biệt khi đại tiểu vận đều hội Sát Kỵ, nếu hình thành cách cục Lưỡng Kỵ tức Lưu Kỵ hội Hóa Kỵ cố định trong bố cục gây họa như Kiếp Kỵ Hỏa Kình, ắt nhẹ thì gặp hình thương, nặng gặp họa sát thân. Khi luận tử vi, người nghiên cứu thường coi trọng Mệnh và bố cục Sát tinh ở thiên bàn, trong khi thực tế cuộc đời nhân mệnh là sự vận động của các tinh đẩu khi lưu hành vận tới.

Saturday, August 10, 2019

Tâm linh và tri kiến khoa học





Tính chất của nhân mệnh, là thực lý của Âm Dương Ngũ Hành. Trong đó có những cách dụng dịch lý có phần đặc biệt như Mai Hoa Dịch Số xem tượng cát hung của các sự việc diễn ra, như xem từ, âm thanh, nghe tiếng nói, cử động, chữ viết,... Toán mệnh lý là một phần khi dựa vào thời khắc thai sinh để dự đoán của đời của nhân mệnh, đại đồng tiểu dị, bất sai khác tuy nhiên lại phát triển có phần sâu sắc hơn khi người chính là chủ thể mà dịch số hướng tới, luận cát hung, thọ yểu, sự nghiệp, tài danh, phúc trạch, phú quý. Kỳ thực chỉ riêng môn tử vi, hoặc bát tự đã nghìn năm vẫn đứng vững, lưu truyền rộng rãi, nghiệm lý toàn cục thực có điểm huyền diệu, nếu không ắt cũng gặp khuyết điểm mà đào thải do sự nghiên cứu thấu thị của tiền nhân.  Mỗi nhân mệnh là một vòng luân hồi, do duyên để phát khởi. Mỗi lá số là một tiếp chuyển của nhân duyên, là cách dự báo theo Âm Dương Ngũ Hành bất biến luôn tác động tới vạn vật, tuy nhiên Âm Dương Ngũ Hành không phải là vật, là một phần quy luật vạn vật tuân theo. Có những việc khiến bản thân ta tin và không tin do tri kiến của khoa học và do chưa khám phá hết thế giới quan của vũ trụ. Cũng như người viết thường luận về toán mệnh, sẽ có người nhìn vào một quyển sách huyền học và tự bỏ qua do tiềm thức ứng với tin tưởng về sự thực tại của duy vật, không có sự gắn kết của tâm linh, của linh hồn. Sẽ có người bất chợt lần đầu tiên nghiên cứu quyển sách đó và nhận ra được giá trị và thứ mới lạ tồn tại xung quanh thế giới quan của nhân mệnh đó. Sẽ có người đã có tín tâm với các môn tam thế diễn cầm từ quá khứ hoặc tin tưởng về dự đoán của Âm Dương Ngũ Hành để nghiên cứu cuốn sách. Sự phát sinh như vậy khiến vạn vật trở nên đa dạng, nhân duyên thúc đẩy cũng sai khác. Trong một kho tàng trí tuệ của mạng thông tin, việc tìm kiếm trên mạng cũng mang ý niệm ứng hợp với nhân duyên. Cũng một việc những sự chứng nghiệm của các nghiên cứu về luân hồi, chuyển kiếp được các nhân chứng sống và kiểm nghiệm của những nhà khoa học, hoặc thậm chí chỉ một vài tin tức về sự dị biệt của một vài trường hợp ở nước ta. Có người sẽ do nhân duyên tìm kiếm thấy và sẽ bỏ qua, trong nội tâm sinh nghi về tính xác thực và động cơ của vấn đề này. Tuy nhiên những nhân mệnh như vậy, khi những vấn đề thường được bỏ qua một cách vô thức, lại đánh mất đi một tri kiến, giá trị của cuộc sống. Chỉ những người trong cuộc hiểu rõ, cũng như người nghiên cứu tử vi hiểu rõ về sao Linh Tinh trong một số cách cục chính là linh hồn, khi đồng độ với Đồng Việt là linh ứng. Nhân mệnh có cách cục này sẽ thường là người có niềm tin rất lớn về nhân quả và nghiệp nhân duyên, tâm linh, không phải do mù quáng, là một thể tính như việc tìm hiểu một sự vật như trên người viết đã đề cập. Vạn vật chỉ có tri kiến là hữu hạn, những việc khó tin tới người nhìn thấy sự tồn tại của hố đen của vũ trụ, đa phần những người nghiên cứu dày dặn trong khoa học bỏ qua và thực khó tin về sự tồn tại này. Qua thời gian lại được chứng minh. Sự phát hiện bởi chỉ một người duy nhất lại có thể đúng và hàng chục năm sau mới có thể chứng minh. Khi bản thân người viết tìm kiếm một thứ gọi là ý thức, một phần có thể đo định bằng thực thể có khối lượng để chứng minh sự tồn tại của linh hồn. Một đạo sư ẩn cư do một nhân duyên tình cờ ngắn ngủi, đàm đạo với người viết về thể tính của nhân mệnh. "Không cần tìm bằng chứng cho sự tồn tại của luân hồi hay tâm linh. Nó không có hình tướng, không có sắc diện, không có nặng nhẹ, không bị tác động, không bị sinh diệt, vì nó được lưu lại tại bởi chính sự liên hệ của bản thân đã tồn tại, biến đổi tới vạn vật xung quanh trong các giai đoạn sống, sự liên hệ đó liên tục với chấp về tri kiến, phân biệt thành mỗi bản thể , từ khi bản thể phát sinh và sự tồn tại của thân xác, ý niệm. Trong một xã hội đang tồn tại về các tính cách, bản tính tương ứng thực chính là sự khởi nguyên của luân hồi. Không có hình tướng do dựa vào nhân duyên để khởi, bản thể là sự liên kết của vạn vật, khi thế giới diệt, cũng chưa diệt vì lưu lại ở mỗi chủng tử thức của vạn vật. 



Về sau, khi nghiên cứu về tri kiến của khoa học, những tri kiến của vị sư trên luôn tồn tại trong tư duy của người viết, thực chứng nghiệm dần về lời luận của cố nhân. Những ngôi sao tinh đẩu đã diệt cách đây rất lâu, tuy nhiên hình tướng của chúng cách đây vạn năm vẫn xuất hiện khi nhìn lên trời, khi đặt mắt ở các vị trí khác nhau trong cùng một thời điểm sẽ thấy được những giai đoạn khác nhau đã xảy ra với ngôi sao này . Sự xuất hiện được lưu lại khắp mọi nơi, được các chủng tử thường gọi là ánh sáng mang tới do khoảng cách khác nhau dẫn tới thời gian khác nhau. Sự tồn tại về thể tính của ngôi sao được lưu lại ở tất cả các chủng tử trong vũ trụ dù ngôi sao đã tan rã, diệt, khi ở gần sẽ thấy thực cảnh, ở vị trí xa thấy sự tồn tại cách đây rất lâu. Có thể một giai đoạn sau khi khoa học trở nên phát triển hơn, ngoài ánh sáng, tồn tại các dạng khác nhau chưa thể nhận thức. Do tính phủ khắp của ánh sáng, vật tồn tại được lưu lại toàn bộ thể tính, bản tính, bản chất.Khi nhân mệnh tồn tại, các chủng tử nhân duyên, hay có thể gọi là sự kiện đã diễn ra, đã phát sinh. Nhân mệnh cũng vậy, khi tất cả đều diệt, ở tại mỗi vị trí đủ xa khi ánh sáng chiếu mang thông tin tới, nếu có đủ khả năng khoa học, trong huyền học cũng có một thể tính gọi là thông linh từ con mắt thứ ba, có thể nhìn thấu từ quá khứ, hiện tại, vị lai ở vị trí nằm ngoài vạn vật. Sự tiếp chuyển của sinh diệt bởi con mắt trần là sự tan rã, hủy hoại của xác thân. Trong các cổ thư đều lưu rõ về khả năng nhìn thấu về nhân duyên và luân chuyển sinh tử bởi con mắt thông linh. Giai đoạn rất lâu từ các thời trước, sự vận hành của con mắt thông linh đã mô tả hàng nghìn năm tuy nhiên thường không rộng rãi. Hiện nay khi thông tin phát triển, sự tương ứng của các giai đoạn lịch sử và quốc gia khác nhau với vị trí và mô tả tương đồng dẫn tới việc nghiên cứu khoa học về vấn đề này càng sáng tỏ, phá những mê tín sai lệch. Sự tồn tại của một con người và chuyển tiếp của luân hồi, có ký ức từ chủng tử của tất cả vạn vật, từ thông tin ánh sáng nhìn thấy nhân tướng luôn có mặt ở khắp nơi, nếu khoa học có thể tiềm vọng tới từng nhân mệnh, mỗi khoảng cách có thể lưu trữ nhân tướng và biến động của nhân mệnh ở từng thời kỳ, chỉ những tri kiên khoa học đã từng biết tới cũng đã cho biết rõ việc nhân mệnh không chỉ lưu lại tồn tại ở trong mỗi cơ thể, khi não diệt thì vật diệt, luân hồi là sự tái hiện của vòng Trường Sinh mỗi khi ở giai đoạn Tuyệt khởi tiếp tới Thai sinh, các chủng tử ký ức do bản tính hành thức có thể được lưu lại bởi chấp niệm, kết nối nhân duyên tới vạn vật để vận động thành một vòng tròn. Ứng với chấp niệm, luân hồi, không mang một tính thực thể có trọng lượng hay khối lượng của ý thức. 





Trong nghiên cứu của khoa học hiện đại, thực tính trong não nhân mệnh có tồn tại một con mắt thông linh, nhìn vạn vật ở thể tính khác, sự tồn tại này đã được khởi quyết là thực. Người nghiên cứu dịch lý nghiệm lý thường nhìn thấy khởi nguyên của vạn vật tuân theo quy luật của vũ trụ. Nguyên tắc này cũng dẫn tới con người không nằm ngoài, do đó khởi sinh ý niệm về số phận, sự ràng buộc của nhân duyên tới bản thể của số mệnh. Tuy nhiên khi suy xét về khuynh hướng phát triển tính chất đã dị biệt do tác động của chính trị dẫn tới biến một phần của khai phá khoa học thành tính chất chính trị trong chế độ quân chủ. Về sau cũng do khai phá trừ bỏ chế độ này dẫn tới sự đánh giá về toàn bộ khoa học phương Đông thành mê tín, dị đoan. Bản pháp không dời đổi, tri kiến về chân lý không thay đổi tuy nhiên với ý niệm cách nhìn thay đổi. Như việc bản thân mỗi người có đánh giá chủ quan về nhân tính của người khác qua gặp gỡ, giao tiếp có thể sai lầm. Trí giả thường ẩn cư tránh sự tác động khiến cách nhìn sự thực về vạn pháp thay đổi để lấy trí tuệ soi xét căn nguyên của vạn vật. Cổ thư có giá trị hiện tại cũng không còn lưu truyền, đa phần thất truyền. Tri kiến nhận thức, nghiệm lý về sự thực như một nghiên cứu khoa học về thể tính của ý thức như trên, cũng là sự nghiên cứu từ bản chất sự vật xung quanh như khoa học phương Tây hiện đại. Chỉ đường lối có sự sai khác, đa phần tính chất khai phá của tiền nhân lấy từ tri kiến về thực tại từ sự tĩnh lặng, tính Không của nội tâm trở nên sáng suốt, cũng có thể do tri kiến từ con mắt thông linh khi thiền định. Tuy tiểu dị nhưng đại đồng về nguồn căn giữa hai bên truy cùng nguồn gốc. Ngay tư tưởng khởi phát của mỗi nhân mệnh tuy biến hóa đa dạng do tính ứng hợp với thân thể mỗi người, vẫn tuân theo quy luật vận hành chung của vạn vật. Tuy nhiên để lấy tri kiến từ tư duy khách quan không mang một thiên kiến là khó khăn. Như việc một thế hệ khi được tin tưởng rằng " Địa cầu là trung tâm của vạn vật". Do thiên kiến trên bầu trời thấy vạn sao và thái dương chiếu đều xoay quanh địa cầu ở ngày và đêm, về tri kiến việc trái đất đứng yên. 





Mỗi lý luận lập luận về các thiên kiến tùy mỗi người đều sẽ nhận định là đúng hoặc trở thành sai trong từng giai đoạn. Hiện nay vẫn có một số bộ phận người cho rằng trái đất là hình vuông, sự tin tưởng mang tính tuyệt đối do những tri kiến nghiệm lý từ suy luận trước. Có thể nếu tri kiến đó được khai phá như việc du hành ra ngoài trái đất thực kiến sẽ khiến chấp kiến thay đổi. Khi tử vi an cặp Không Kiếp và Không Vong, chính là sự trái nguyên tắc của vạn vật, khiến tri kiến được khai mở liên tục từ những khám phá mới, Tham Lang là tham muốn tốt cùng về chân lý, khiến Phá Quân khám phá và Thất Sát lại thất kinh, bất ngờ về khám phá của bản thân về những kiến chấp đã tồn tại trong tri kiến bị phá bỏ như câu thường nghe " Không thể tin vào mắt mình", " Việc dường như không thể xảy ra". Tri kiến này cũng như tri kiến về luân hồi, về vòng Trường Sinh liên tục sinh diệt. Tới các thông tin về chuyển kiếp của mội người hay nhiều người có thể coi là sự lừ gạt. Thực tế, có những việc như có không gian có thể dừng thời gian là có thực tại hố đen, sự đột phá tạo ra bất ngờ. Do đó thường khi nghiệm lý về lá số theo khuynh hướng khoa học, từ khoa học huyền bí tới khoa học hiện đại thường nhìn thấy cách cục Sát Phá Tham hội Không Kiếp. Hay Cự Cơ Đồng hội Không Kiếp. Hai sao Cự Môn và Thất Sát là hai sao của sự bất ngờ, toàn cục của Cự Cơ Đồng và Sát Phá Tham đều mang tính khai phá rất mạnh, đặc biệt khi có Lộc Tồn hội Không Kiếp, do tính khai phá mạnh mẽ, khai phá ngay trong bản chất như đã hằng cố thường trụ, thường như chân lý vững chắc mà giai đoạn đó tri kiến được, tức tính chất của Lộc Tồn. Sức bạo phát của cách cục rất lớn, do vừa đắc vòng Lộc Tồn, vừa gặp Không Kiếp tuy nhiên rất khó đắc cách. Mỗi cách cục sẽ ứng hợp với tính chất bên ngoài đời thực. Như việc rất nhiều thần đồng, thiên tài có khả năng tri kiến từ thời trẻ là chữ Thiên Đồng. 





Sức tham muốn của vật dục với tham muốn về tri kiến khó có thể phân nặng nhẹ, một bên là trầm xuống, một bên là khai phá ra. Trong tùy thời cuộc, sự tác động của xã hội sẽ ảnh hưởng tới một phần tính định cách của tham muốn, như Tham Lang. Một nhân mệnh ở nơi này có thể là nhà khoa học vĩ đại, cũng nhân mệnh đó ở nơi khác phát triển tiếp nhận khí hóa từ thực tại sống có thể trở thành người tham muốn sắc diện. Vì tính khí hóa tại mỗi thời điểm, mỗi xã hội, mỗi tiếp nhận là sai khác ở ngay chính mỗi nhân mệnh. Toán mệnh là khả tri bất khả kiến. Sau trăm năm nữa người đang sống hiện tại cũng đều không còn tồn tại, xã hội đang sống là tiếp nối tương tục, là sự ổn định của vận nước. Tham vọng của người có tham muốn lớn luôn hàm chứa Sát tính loạn động, cũng khiến nhiều kẻ lâm vào cuộc sống bất mãn, đố kỵ, ganh ghét lẫn nhau. Trong bố cục Sát cách khó dụng do tính chất thường trực gặp của mỗi nhân mệnh. Ghen ghét, đố kỵ, thất vọng khi kẻ khác gặp may hơn hoặc có năng lực hơn là khuynh hướng tính chất thường ứng hợp. Thời vận tới rất nhanh, thành tựu của kẻ tay trắng gặp thời về tính chất cũng nhanh chóng như việc suy bại của một kẻ đại phú. Vận chuyển xoay vần, trước đây người cậu cũng là nguyên thủ quốc gia, thịnh suy dòng họ có lúc, vật đã có sinh mạng thì có mạnh yếu, được mất, may rủi, thịnh suy. Dòng dõi, tài sản, thứ quý báu hay giá trị, quý khí, chức tước cũng là do định nghĩa của con người tạo ra, do tham muốn của hệ đồng tư tưởng là xã hội định nghĩa các quy luật và khi gia nhập vào xã hội từ qua giai đoạn tiếp nhận tri kiến thuở nhỏ, thường nhân mệnh sẽ chịu tác động hệ tư tưởng này, và một vài sẽ trở nên đại thành tựu nếu nội tâm tạo nên sự khác biệt so với đa phần. Phàm vật ít thì quý, duy nhất là hiếm, độ số cách cục cũng phân định không sai khác. Nhân mệnh phân định nội ngoại, nội tâm và ngoại thân. Cung an Thân là ngoại thân, cung Mệnh là nội tâm. Nhiều người khi nghiên cứu lâu dài vẫn có khúc mắc trong cách phân định về tính chất của tinh đẩu ở hai vị trí cung Mệnh và cung an Thân. Cung an Thân là cái thấy được, hoặc điều khiến được, thường luận là ý thức và hành động có ý thức. Cung Mệnh là cái tàng ẩn bên trong của nhân mệnh, là bản năng, bản tính, là vô thức và hành động vô thức. Tinh đẩu tại cung an Thân và cung Mệnh tính chất sai biệt nhau rất lớn. Phần luận về biến động của hành vận càng khó khăn khi xác định ý nghĩa của các tổ hợp giao hội. Việc nhớ về tính chất giao hội của các tổ hợp là cách phức tạp nhất trong luận tử vi. Việc căn bản trò phải phân từ xét riêng trong nội cách tức bản mệnh, và xét chung toàn bộ tổ hợp Mệnh Tài Quan cách. Hành vận lưu tới xét từ tương quan ngũ hành Mệnh Cục để biến đổi tính chất của toàn tổ hợp Mệnh Thân Vận giao hội cho phù hợp. Quan trọng là khi xét luận cần nắm vững tính chất của từng bộ sao, hay nhóm chính tinh và bản thân mỗi chính tinh khi giao hội bàng tinh, thứ tới rồi mơi có thể đến hành vận phối hợp. Mệnh Thiên Lương đắc cách, thường xuất thân gia đình phú quý, tuy nhiên lại thường khó có thể hưng vượng hơn và chịu đè nén, áp lực như " Công danh đợi tuổi tác cao, giáp Liêm giáp Sát một hào chẳng sai" là vị trí Thiên Lương cư Sửu Mùi. Hoặc cách "Lương cư Tị Hợi tắc tật du" có thêm Thiên Mã càng ứng hợp. Trong thời kỳ trước, khi thời bình trở lại, những vấn đề quan tâm của người xem tử vi khác với hiện tại, trong xã hội truy cầu chữ phú và thụ hưởng càng lớn này, bề ngoài là thịnh vượng nhưng bên trong nhiều sự bất mãn, bất lực trước số phận, kích phát thêm bởi các xu hướng của thông tin, giải trí. Cũng có một vài dị biệt nghịch xu thế bất lực, nhân mệnh số thượng cách âm thầm vượt lên đứng đầu xã hội về cả phú lẫn quý như câu " Bạch thủ thành gia". Những nhân mệnh đó có một đặc điểm ứng cách cục rất đặc biệt trong tử vi, khi nghiệm lý thành tổ hợp trọng điểm cách. Không phải chỉ là tham vọng, còn có thể là sự mù quáng so với suy nghĩ người thường, cách cục Diêu Kỵ Linh Quyền giao hội Tài cách thành cách cự phú thường ít được chú ý đến vì hội Nhị Ám, dễ thành lập dị, khi nhìn nhận thực tế, nhiều kẻ thành tựu mang tính chất này.