Thiên Phủ hội Tam Không Lộc Tồn trong thế Thiên Phủ cư Mùi hội Tướng Không Kiếp Tang đồng độ hội vòng Trường Sinh. Thiên Phủ thường người nghiên cứu tử vi rõ câu phú " Thiên Phủ tối kỵ Tam Không, ngộ Thanh Long phản vi cát tường". Thực tế trong câu phú tác hóa từ tính chất khởi nguyên của nhóm Phủ Tướng. Khi nắm rõ tính chất biến hóa của giao hội Thiên Phủ Tam Không với nhóm Thanh Phi Phục. Trong tính chất của Thiên Phủ tại bản cung tính chất tích trữ, nhập mệnh cách bản tính ưa suy xét, ưa nắm sâu nên trong vấn đề, nhận biết thông tin quan trọng bí mật. Như trong phát triển công danh, hay kinh thương, cửa trước và cửa sau, các mối quan hệ, bí mật kinh doanh. Nếu không có các vấn đề quan trọng cẩn mật tránh công khai khó thành tựu. Trong cách Thiên Phủ hội Tam Không phân cách cục Phủ Tướng đơn thủ và Phủ Tướng hội Tử Vũ Liêm cách. Trong thế Phủ Tướng đơn thủ, cách cục không chịu tác động dẫn hóa của Tử Vũ Liêm, do đó ý nghĩa sai khác. Phủ Tướng tam hợp chiếu đơn thủ có tính chất chủ tình cảm, tình nghĩa cho tới tương trợ vì mối quan hệ. Thiên Phủ có tính hiền hòa, thực tế thường luận có tính nhân nghĩa. Tính chất quan trọng của Thiên Phủ ở tính ôn hòa, khuynh hướng tránh xung đột. Tuy nhiên Thiên Phủ sẽ biến hóa thành tính chất ảo vọng, mất định hướng nếu phá cách. Tam Không khiến bố cục Thiên Phủ hội Tam Không mang ý nghĩa bất ngờ, không thể đề phòng với các biến cố. Nếu Tử Phủ Vũ Tướng Liêm hoàn chỉnh là phá cách. Trong trường hợp Phủ Tướng đơn thủ cách cục không mấy hay tuy nhiên cát hóa không phức tạp như toàn cách cục Tử Phủ Vũ Tướng Liêm hoàn chỉnh. Trong cách cục Tam Không là vong cách, tính chất tác động như hư huyễn, chủ mất, tại Mệnh cách hội là mất định hướng, do đó kỵ với cách cục tồn giữ của Lộc Tồn, cũng kỵ với Chính Tinh chủ tồn giữ, ổn trọng như Thiên Phủ và chủ lý tưởng như Tử Vi. Phủ Tướng đơn thủ tránh được thế Tử Vi hội Tam Không trong nội cách.
Trong giao hội của Tam Không hội Thanh Phi Phục tốt do tính chất vòng Lộc Tồn đối nghịch vòng Phi Liêm. Thế Lộc Tướng Ấn là phát triến do tích lũy, ổn trọng. Thế Thanh Phi Phục là thế phát triển do tan rã, chia rẽ tạo nên thời cơ biến hóa. Trong cách cục của Thiên Phủ hội Tam Không, tính chất ổn trọng phá vỡ, nội tâm ắt biến loạn, thay đổi, trong cuộc sống ắt gặp nhiều chữ mất hơn được, vô định hướng khiến khí hình bất cường vượng. Tuy nhiên nội cách cục Phủ Tướng khi định Sát cách phân thành khuynh hướng quyền biến chế dụng trước Tam Không, tức thay đổi tính chất ưa ổn trọng, cẩn tắc của Thiên Phủ hóa thành tùy biến, quyền biến linh hoạt. Bố cục này rất khó định cách, do Thiên Phủ hóa từ thế chủ động trước tình cảnh thành thế bị động. Cách Thanh Phi Phục chủ tan rã, là cách cục phân chia. Cách cục này có tính chất phù hợp với Cự Môn chủ tồn tại bất mãn, do tính chất của toàn cục thành cách Cự Thanh lão bạng sanh châu. Trong nhóm Thanh Phi Phục, sao Thanh Long là bàng tinh có tính chất nhanh nhạy, chủ chớp thời cơ do cách cục mang tới, tính động mạnh. Thanh Long còn chủ ngôn ngữ, tiếng nói ra bên ngoài. Trong cách cục Thiên Phủ hội Tam Không và ba vòng sao Lộc Tướng Ấn, Tang Hư Mã, vòng Trường Sinh. Cách cục gặp Không Kiếp Mã Sinh tại cung độ Thiên Tướng có tính chất biến hóa rất lớn. Thiên Phủ mệnh cách tuy ở thế mất định hướng, tính chất phòng bị suy yếu tuy nhiên cách cục Mã ngộ Trường Sinh có tính trợ lực rất mạnh, Lộc Mã giao trì hình thành. Tuy nhiên cách Phủ Tồn rất kỵ hội Tam Không trong thế Không Kiếp đồng độ tại Hợi địa, nếu không có Thiên Tướng tọa thủ tại cung độ này ắt họa không nhỉ. Trong định cách cục, tùy thế biến hóa do trọng nghiệm lý tránh được sai lầm trong các bố cục giao hội. Thiên Phủ tối kỵ Tam Không hội Lộc Tồn là thế tuyệt địa, Mệnh Thân tại vị trí Thiên Phủ thường người luận lá số xét mệnh yểu. Tuy nhiên tại cách cục cung độ Thiên Tướng ngộ Không Kiếp Mã, đắc vòng Trường Sinh có tính cát hóa lớn.
Đây là thế Tuyệt xứ phùng sinh, tuy không gặp khó khăn tai kiếp tới bản thân, cách cục vẫn khó có thể thành tựu sớm, do Tam Không hội Lộc Mã phù hợp với thế biến động của mệnh Vô Chính Diệu hơn gặp Chính Tinh tọa thủ mệnh, đặc biệt là mệnh Tử Vi, Thiên Phủ. "Mệnh VCD đắc tam Không, hữu song Lộc phú quý khả kỳ". Cách cục Song Lộc tức Lưỡng Lộc gồm Hóa Lộc giao hội vòng Lộc Tồn. Mệnh cách Vô Chính Diệu hội Tam Không biến động phù hợp. Tính chất của Tam Không có tính chất không ngờ trong mọi sự, đứng đầu trong Sát cách đặc biệt khi nhìn thấy Địa Kiếp trong bộ Không Kiếp. Cách cục của Tam Không hội Địa Kiếp ý nghĩa khác hoàn toàn chỉ hội Tam Không. Thực tế khi lưu truyền tử vi rộng rãi, cặp sao Khôi Việt và vòng Trường Sinh thường an sao nhầm lẫn về vị trí và tính chất sai biệt. Cách cục của Khôi Việt rất quan trọng trong vận tuyệt xứ và cách cục cát hóa của vòng Trường Sinh. Trong bố cục Khôi Việt luận hai sao quý nhân, tuy nhiên tính chất của hai bàng tinh này thường lẫn lộn và an sai biệt vị trí của hai sao dẫn tới tính chất của toàn cách cục luận sai khác. Bộ Khôi Việt khi hội Sát Kỵ tăng thêm tính nguy hiểm của bố cục, thường có mặt trong hạn tai họa, tai kiếp. Trong giai đoạn chiến loạn là hành vận gặp tử thương. Trong giai đoạn bình ổn là hành vận bệnh tật. Tính bộc phát của Khôi Việt không mang tính bất ngờ, tuy nhiên nếu hội Kiếp Hình hoặc Linh Hình Kỵ ắt có tai họa tới. Tai kiếp thường tới thêm từ thương tích tới bản thân, hoặc gặp tai họa bộc phát về tài danh. Khi giao hội với cách cục có tính ổn trọng, ôn hòa càng tăng tính tai họa. Trong cách cục đột phá, bộc phát có thể phát tài, phát danh rất lớn. Tuy nhiên cũng có thể phát tai họa, tai kiếp. Thứ tới mệnh cách hội cát, hành vận tạo tổ hợp Sát cung trọng điểm trùng phùng là vận cần cẩn trọng kẻo lộ đồ khảm kha.
Nghiệm lý các lá số cách cục hình thương tính mạng, từ việc gặp thủy tai, hay hung sát khí, tai nạn giao thông, bệnh tật nan y đều khởi phát từ đại tiểu vận trùng phùng bố cục tác họa bất ngờ, khó đề phòng. Thứ tới nhóm sao chứa Sát tính ẩn tàng bộc phát. Trong đó Khôi Việt là cặp sao tuy tạo thành tựu lớn cũng đi liền với tai họa do tăng mức độ bộc phát của tai kiếp. Kình Dương và Đà La đều chứa tính mâu thuẫn. Kình Dương do ưa kích động, kích phát về thế tấn công. Đà La thiên về thế nhẫn nhịn tạo bộc phát. Nếu Kình Hình Việt hội Sát Kỵ khó tránh khỏi thương tích. Nếu Đà Kỵ Khốc khó tránh khỏi do nhẫn nhịn dẫn tới phản kháng mạnh. Cặp Xương Khúc có mặt trong cách " Quế Sứ Hoa Thương tối hiềm giao hội, mạc phùng Sát diệu đa khổ tai ương". Do cách cục cường cung hội Không Kiếp, hành vận tới cung độ Quế Sứ Hoa Thương hội Sát Phá Tham tức Mệnh cách ở cách cục Cự Nhật, Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Cơ Đồng, Âm Dương Lương. Đặc biệt nếu mệnh cách không gặp Cự Môn, lại mệnh Âm Dương Lương hiền hòa tới hành vận Quế Sứ Hoa Thương rất phức tạp. Mệnh cách nếu chỉ hội trợ tinh Khoa Quyền Lộc Tả Hữu Xương Khúc bất kiến Sát Kỵ là mệnh thiên lệch, hành vận đại tiểu vận trùng phùng Sát Kỵ ắt khó tránh được tuyệt cách. Trong cách cục tai họa tập thể nhưng việc rơi máy bay hay tai kiếp do hỏa hoạn, thiên tai ứng kiếp số của thiên kiếp. Nếu nhân mệnh tự nội cách sức cát hóa cực vượng, chế hóa Sát Kỵ thành tựu thường gọi cao số. Phàm là nhân mệnh ở vị trí đứng đầu cũng có một mặt gặp chữ không, mất mát. Với cách cục Sát Kỵ, nhiều nhân mệnh có cách dụng thành tựu. Tuy nhiên thường khó thoát được kiềm tỏa của Sát cách để chế hóa bố cục, dẫn tới bố cục tác họa tới nhân mệnh. Cũng như trong chiến trận, với áp lực, đè nén tới tính mạng, toàn cục diện xoay chuyển nhanh chóng. Nắm thời cơ, lấy thế tĩnh chế ngự được rối loạn trong nội tâm có cái nhìn sáng suốt, tinh tường có thể chuyển bại thành thắng, thành tựu của nhân mệnh là việc chế ngự tự thân, hàng phục nội tâm không chuyển động theo cảnh. Đây chính là điểm phân biệt thượng, trung hạ cách của mệnh lý. Không phải bố cục giao hội cát tinh, cách cục Mệnh cao thấp phân định.
Trong cuộc đời sẽ có những ngã rẽ và lựa chọn. Trong cách cục Sát Kỵ trùng phùng, kẻ khí hình cực vượng chính là thời vận thành tựu từ khó khăn, người khí hình suy bại là cách cục của bệnh tật, tai ách. Vật cực tất phản, thiên địa bất luận đều tuân theo. Tuy nhiên được mấy người có thể bình ổn nội tâm trước khó khăn bế tắc, ổn định trước hiểm cảnh. Khiến người trong thiên hạ tuy nhiều nhưng kẻ thành tựu rất ít. Nếu vị tướng quá lưu tâm tới từng sinh tử, để lỡ thời cơ đột phá thì chiến trận ắt bại. Trong chiến loạn ắt có đổ máu, là khuynh hướng của thời cuộc. Chữ Phi trong nhóm Thanh Phi Phục là cách cục linh hoạt, dụng được nhiều cách cục phù hợp tính chất do Phi Liêm có thể làm việc sai trái, Thanh Long có thể quyền biến bằng khẩu ngôn thành chính nghĩa. Trái với Lộc Tướng Ấn chữ chính nằm ở Lộc Tồn với Quốc Ấn thiếu tính linh hoạt. Cũng như Tuế Hổ Phù là sự thực. Tang Hư Mã linh hoạt do có thể biến cái giả của Thiên Hư thành thực. Vạn vật luôn biến hóa thay đổi giữa thực và hư, chính và bất chính. Người viết có đọc một bài viết về bảo vệ sự thực về trái đất quay quanh mặt trời nên một nhà khoa học Giordano Bruno phải chịu hỏa thiêu, trong khi xã hội đều quan điểm nghịch tức mặt trời là trung tâm trái đất. Trong nhóm sao linh hoạt, quyền biến là Phi Phục Thanh và Tang Hư Mã đều có tính chuyển động, linh hoạt do Thanh Long và Thiên Mã tác động. Trong một mâu thuẫn lớn, có thể dẫn tới tai họa tính mạng do bất đồng quan điểm, mâu thuẫn về vấn đề , cách cục Tang Hư Mã có thể có lợi hơn Tuế Hổ Phù. Cách cục Thiên Phủ hội Tam Không cũng vậy. Nếu mệnh Cự Môn dụng tính chất tranh luận trong nghiên cứu khoa học, học thuật khác với cự cãi trong kinh thương hay ngoài cuộc sống. Nếu nhân mệnh hướng tới đa phần thời gian nghiên cứu học thuật ắt chế ngự được tai kiếp của Cự Kình Kiếp Kỵ Khốc Hình tránh bị loại trừ, hại do mâu thuẫn. Nhân mệnh hình thành số phận do vô tác ứng hợp hoàn cảnh. Dụng trợ cách phân định phức tạp hơn với luận số do cần nắm rõ tính giao hóa của toàn cách cục, phân định cách cục.