Mỗi tiểu vận qua chữ Suy Bệnh lại tới gần. Cổ nhân lưu lại hậu thế thực không chỉ những tri kiến thường về dịch lý, phong thủy, âm dương ngũ hành, còn cả quy luật của vạn vật không sai khác, quy luật chung của vũ trụ và tương quan sâu bên trong của phát triển, vấn đề trong hai chữ sinh và tử, nghiên cứu bản thể của toán mệnh, lý số, nhân duyên, nghiệm lý thực hư. Tài liệu về sau phổ biến không còn nhiều về tri kiến tiền nhân tác động tới tôn giáo, tư tưởng của Phương Đông sai khác với Phưng Tây. Thuật phong thủy chủ sắp xếp thế cục phù hợp với quá trình Sinh tới Vượng, phá bỏ thế Hưu Tù. Vật hanh thông thì phát triển, vật tắc thì phá bại. Cũng giống như khối u tại cơ thể, thể khí không lưu thông trăm bệnh sinh. Khí huyết lưu thông trăm bệnh đều diệt. Tuy nhiên trong thế cùng cực có nhiều trường hợp sai biệt, sinh dị, tốt là dị nhân có khả năng đặc biệt, khi xấu là bệnh nan y hiếm gặp. Khi vật bình hòa phát triển lưu thông ổn định thường khó đột phá. Luận về thực tốt phân làm hai loại phát triển và đột phá, để hoạch phát là giai đoạn cùng tắc biến, tức ở giai đoạn đánh đổ bĩ dẫn tới thái. Như việc tôi luyện than chì thành kim cương, áp lực đè nén và tập trung lớn, Hỏa dẫn động bất tán loạn, lại tụ là thể của hoạch phát. Trong đời người chỉ một cơ hội hoạch phát có thể thay đổi cả cuộc đời, tuy nhiên ta thường hau gặp cơ hội bệnh nan y nhiều hơn cơ hội thành công. Tất cả đều xét qua giai đoạn tích lũy, thường luận là khí tụ và khả năng chế hóa của mệnh tạo với khí hình. Tinh hoa phát tiết là khi khí hình đủ thời cơ tới bộc phát ra bên ngoài theo ý nghĩa tốt. Tinh hoa là tốt đẹp. Trái với phát bệnh, phát điên. Chữ khởi phát và mức độ để xét được mất thành bại. Ngay bệnh tật nan y không tự sinh, cần giai đoạn tích lũy ứ trệ, hoặc chịu tác động lớn từ bên ngoài và bên trong thay đổi đột ngột. Thể khí hội khiến tướng số hiện hữu bên ngoài. Mệnh cách nếu không hội quý cục ở Mệnh Vận phù hợp cần thiết gặp đại vận hoạch phát. Người luận tử vi đôi khi có cái nhìn thiên lệch về các tổ hợp. Các bố cục Tham Xương, Cự Đà, Kình Khốc đồng độ thường không được luận tốt đẹp trong các câu phú. Tuy nhiên tổ hợp sao trên rất quan trọng để đánh giá mức độ thành tựu do đều hàm chứa bố cục Sát đã chế ngự khi phối hợp với nhau. Cổ nhân luận phú tử vi, trong các câu phú thường thuộc trường hợp đặc biệt mang ý nghĩa phối dụng cách cục phức tạp, đời sau thường lấy kiến giải của tự thân giải đáp các câu phú dẫn tới có người kiến giải phần sai lệch về ý nghĩa các cách cục trong luận giải tử vi.
Cũng Tử Vi hội Tam Không tuy nhiên phân định sai khác, không mang ý nghĩa vong mạng. Một số cách cục hoạch phát lớn, một số cách cục mạng vong là trường hợp dị biệt như ở trên đã luận về thế đột biến. Trong ngũ hành Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ là và sinh khắc của ngũ hành biểu thị hai mặt thuận lợi và cản trở. Thuận là thái, Cản là bĩ. Thời cuộc là nơi xoay vòng của bĩ và thái. Một tổ chức hay một quốc gia có thể được thời kỳ thịnh trị ắt cũng phải suy vi. Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim là tương sinh. Vấn đề tương sinh không chỉ nằm ở tính sinh trưởng, mà gắn với sự biến đổi khi chịu tác động của phụ tá liên tục. Kim sinh Thủy cần Hỏa trợ. Với phần khắc kỵ cũng không nằm ngoài tính phối hợp. Hỏa khắc Kim có Thủy thành quý. Người thường đa phần ưa sinh bất ưa khắc, ưa thuận bất ưa nghịch, ưa cầu hạnh phúc, an nhàn thụ hưởng sâu dày tránh sự khổ cực, áp lực, lao tâm. Do đó dẫn tới mệnh tạo quý cách thường nghịch khuynh hướng chung. Do nghịch chuyển lại tú khí nên dẫn tới hòa hợp là mệnh quý. Vật tốt đẹp do hiếm gặp, thế cùng tắc biến là thế hiếm gặp. Bệnh nan y cũng vậy, nhưng mang ý nghĩa xấu. Thường người luận về sau lấy thể hình áp dụng với bốn mùa xuân hạ thu đông trong năm, lại lấy tiết khí ứng hợp nơi khí hậu đầy đủ để luận định. Khí xuân ứng Mộc vượng cây cối phát khởi mạnh. Khí hạ Hỏa vượng nhiệt sáng vật hoạt động mạnh. Khí thu tức Kim vượng ứng cây cối vạn vật chịu khắc phạt. Khí đông Thủy vượng trời đất lạnh lẽo. Thời tiết thuộc Xuân khí Mộc đương vượng, muôn vật sinh sôi khởi đầu là giai đoạn sang năm mới tức Tết Nguyên Đán. Tuy nhiên khí hậu hay phân tiết khí có sai biệt giữa các vị trí địa lý khác nhau. Ở vị trí của hai cực thuộc Thủy khí cực vượng, tiết khí sai biệt do ngũ hành thiên lệch. Hoặc các quốc gia thời gian mặt trời chiếu sáng dài nhiều ngày. Phân định thời gian trong một ngày là điểm quan trọng để định bát tự trong toán mệnh.
Tại thời điểm quan trọng xét lịch tiết khí cổ nhân định tại vị trí của Lục Thập Hoa Giáp phối hợp từ 10 Thiên Can và 12 Địa Chi trong vị trí địa lý Trung Hoa và Việt Nam xác định về khởi định thời Mệnh ban đầu. Thời phong kiến thường dùng chu kỳ 60 liên tục ứng thêm niên hiệu của thời kỳ cai trị của vua. Trong Lục Thập Hoa Giáp lặp lại theo kỳ xác định một điểm thời gian đúng tức có thể xác định hoàn toàn tất cả những giai đoạn còn lại trong quá khứ hay về sau. Trong Âm Lịch thường gọi là lịch Âm Dương. Tại đây lưu ý về tháng Nhuận tức tháng trùng lặp về Can Chi của Nguyệt vận trong năm. Trong tử vi không xét tới Can Chi của Nguyệt lệnh. Lấy an cung Mệnh tức cung độ quan trọng nhất trên thiên bàn bởi số tháng sinh và giờ sinh. Tháng sinh quan trọng do ảnh hưởng tới cách an của Cục số và vòng Chính Tinh phối hợp các bàng tinh an theo Tháng. Như việc trong tháng 6 năm Đinh Dậu là tháng nhuận. Nếu trong khoảng giữa hai Đông chí chỉ có 12 điểm Sóc tương ứng với 12 tháng âm thì năm đó không có tháng nhuận. Còn nếu trong khoảng thời gian này có 13 điểm Sóc thì sẽ xuất hiện một tháng âm dư ra không tương ứng với trung khí nào và tháng đó sẽ là tháng nhuận. Điểm sóc và trung khí là gốc để tính tháng nhuận khi một năm hình thành 13 lần điểm sóc ứng có 13 tháng do mỗi năm xét âm lịch có thiếu một số ngày, ít hơn so với dương lịch chỉ thiếu khoảng hơn 5 giờ. Nếu năm có tháng nhuận chỉ có một tháng có trung khí thì đây là tháng nhuận. Tuy nhiên sẽ có năm nhuận nhiều tháng không có trung khí, lấy tháng ngay sau tháng Đông Chí tức tháng 11 là tháng nhuận. Xét trung khí ở trong một tháng Âm Lịch dùng tới vị trí hoàng đạo của Thái Dương tức mặt trời đi vào. Trong yếu tố tháng Nhuận xét trong tử vi như trên. Thực tế khi luận tử vi cũng không cần thiết nghiên cứu sâu về lịch tiết khí, tuy nhiên để thấy tiền nhiên nghiên cứu về thiên văn rất sâu rộng. Nếu sinh vào tháng 7 âm lịch năm Đinh Dậu tính vị trí Mệnh tạo như tháng 6. Vị trí an Mệnh tạo là mối tương quan giữa sự phát khởi một sinh mệnh tương ứng với dịch chuyển của thiên địa. Tức ở thời điểm tác động của Nhật Nguyệt tinh đẩu tới mệnh khí hình thành số mệnh bản tính.
Do tính biến chuyển của thiên văn là liên tục dẫn tới sai biệt về vị trí địa lý với góc tọa độ ứng hợp và ngay mỗi khắc đều thụ khí sai biệt. Chưa bao gồm việc thể khí của thai tức từ di truyền phụ mẫu ứng hợp dụng cũng sai biệt. Đây là điểm các lá số tử vi gặp sai biệt. Cổ nhân lưu ý rõ về tính chất của khí hình là cái khác nhau của mỗi mệnh số. Vị trí địa lý tuy thiên lệch một quãng rất ngắn khi xét tọa độ lập cách cũng có sai lệch. May mắn khi định vị trí lập Mệnh cách cũng ở thế luân chuyển biến động như thiên văn. Như một vật được vật khác kéo theo cùng quỹ đạo dẫn tới không gặp thay đổi quá nhiều sai lệch lớn và có thể dự đoán. Trong chu trình sinh trưởng của mỗi nhân mệnh vẫn chịu tác động liên tục theo quy luật của các tinh đẩu và thứ tới là vòng Trường Sinh tức hành khí mạnh suy của vòng đời và hành khí tác động từ ban đầu tạo nên bản tính. Một số man thư luận sai lầm biểu kiến việc chỉ chịu tác động tại thời điểm thai sinh. Thực tế trong ngay hiện tại sức tác hóa của tinh đẩu vẫn tác động tới mệnh thể. Cũng như việc nếu sinh sống ban đầu ở vị trí địa cực lạnh ắt chịu ảnh hưởng trong tư tưởng từ Thủy vượng dẫn tới hình thành tính cách riêng biệt có thể dự đoán. Xã hội tại nơi vậy là tập hợp con người, tức chịu tác động như vậy. Định cách của khí hình là sự biến đổi trong nội tâm do sự sai biệt của môi trường xã hội từng vị trí nền văn minh đã có biến đổi. Tuy nhiên tư tưởng trong mỗi cá nhân xét chung vẫn không sai khác. Cũng do vậy Không cách tức ứng thể thoát được khỏi tác động của quy luật trên trong một giai đoạn là cách cục đứng đầu trong tử vi khi vô luận định. Càng về sau biến đổi xã hội đa dạng việc tiếp nhận và xét dụng ứng hợp như một cái cây sinh ra nhiều cành lớn và cành nhỏ mở rộng. Xã hội là tập hợp tư tưởng mỗi nhân mệnh, do đó mang tính chất đã chịu ảnh hưởng từ tinh đẩu của nhân mệnh. Do đó tử vi toán mệnh vẫn luận không sai khác tới hiện tại. Tuy nhiên một số trường hợp đặc biệt sẽ có dấu hiệu và khí hình rất khác thường. Như việc một hồ sen mọc lên nhưng bông hoa khác lạ, có thể rất tốt đẹp hoặc xấu. Khi chịu tác động gần như một làng ung thư ô nhiễm nguồn nước thì mệnh quý cách cũng vong mạng.
Chiến tranh thế giới cũng khiến tử vi không thể dự đoán mệnh quý yểu đều vong mạng không sai biệt. Thể tú khí có ứng hợp cứu là cách an về Thiên Lương. Khi mệnh tạo gặp cách may mắn thì trước sự tác động của tai họa, tai kiếp như động đất đã hình thành thế thông linh, thoát một cách kỳ lạ thực tế sự vận động đã diễn ra từ trước, tiền nhân thường gọi nhân duyên sắp đặt. Trạng Trình nhìn thấu được một phần sự việc về thời lịch sử sau. Cổ nhân định về nhân quả, luân hồi như một vòng chịu ảnh hưởng tác động liên tục không thoát khỏi, tác động liên tục khi trời đất vạn vật còn tồn tại. Thực nhân mệnh là một vòng Trường Sinh, nếu định được Không cách thì ở giai đoạn Không thoát được trong chu kỳ Sinh Vượng Suy Tuyệt Không lặp lại. Còn thực bên ngoài chữ Tuyệt không tới sự mất hẳn, vẫn chịu tác động của bên ngoài tới chữ Không cũng chỉ là tạm thời không hoàn toàn. Như một quả cầu gần như kín bên trong chứa các vật đại diện thể tính luôn tác động lẫn nhau biến đổi dạng này tới dạng khác. Đây là vũ trụ đại đồng tiểu dị. Đại ngã và tiểu ngã trong nghiên cứu của Ấn Độ. Một phần khi nghiên cứu thực tại việc ngay bản thân nhân mệnh không nắm rõ, điều khiển toàn bộ thân thể, trí lực. Các trường hợp ngoại biệt không chỉ xác định ở bất tự chủ, tức cái tự ngã ở thân thể. Các bộ phận bên trong, thế giới thu nhỏ tồn tại của vật ký sinh. Cũng như vậy xuất hiện thần nhật nguyệt cai quản hai tinh tú, các thần khác. Sự vận động trong cơ thể vẫn theo quy luật, do tính không toàn vẹn của tự chủ. Trong tư tưởng bản thân nhân mệnh cũng không toàn vẹn tự chủ. Như việc kẻ bị tâm thần loạn động, kẻ gặp rối loạn đa tính cách thường gọi ma nhập. Hai thể tính không tự chủ dẫn tới bản thân nhân mệnh không tự chủ hoàn toàn, hoặc ngộ nhận là tự chủ. Trong trí tưởng hay ý niệm phân biệt do thể tính bên ngoài xã hội tạo ra, khởi phát do tham muốn.
Nếu không có mặt trời tức Thái Dương ắt vạn vật cả nhân mệnh phát triển theo khuynh hướng khác. Sự sinh phát của xã hội do giai đoạn lịch sử tạo thành. Sự khai biến của vòng luân chuyển nhân quả cũng do hành thức tác khởi. Khi phân định dòng tư tưởng và thể xác đã phân định phát khởi về Mệnh và Thân. Với mối tương quan là nhân duyên, dẫn tới giai đoạn Không trong thể Sinh Vượng Tử Tuyệt Không, không trụ vững ở giai đoạn Không. Dẫn tới tiền nhân ra sức hướng dòng tư tưởng, tức phân tách Mệnh và Thân qua thiền định, hướng tới theo quá trình phát triển thiền định, phân rõ tâm thân để hướng tới thế đại ngã, nhất nguyên. Tuy nhiên thực tế sức thiền định có tác động khai phát do thức ấm tác dụng nghịch lại hành ấm, hay gọi là hành vi. Như việc trong quá trình phát triển, con người từ săn bắn hái quả thụ động về sau nhận thức cao tự gây trồng mang thế chủ động. Từ thế bị động của vật vô tri kiến thể Không, hướng tới thế chủ động tri kiến của Không dẫn tới sai biệt về thành tuy không sai khác về tính chất.
Khi định cách cục phân phối hợp tính chất một lá số là sự tác động từ Mệnh Thân Vận và khí hình của mệnh tạo. Một mệnh tạo thai sinh là khởi nguồn của vòng Trường Sinh bắt đầu tại vị trí Thai. Tử vi bắt đầu khởi phát cung Mệnh từ lệnh Nguyệt Vận đi thuận từ Dần địa là khởi của Mộc, thứ tới nghịch tới giờ sinh là phép định tọa độ của bản thân so với Nhật Nguyệt và tinh hệ tác động. Tức dòng khí tác động tới ngay từ Thai sinh tới khi Tử Tuyệt. Do tính chất tác động suốt cuộc đời và các chu kỳ tác động của tinh đẩu tới Mệnh tạo rất mạnh nên tạo ra các tính cách và thói quen. Do đó thực tế trong tư tưởng trong cả cuộc đời từng sát na, giây phút luôn chịu tác động của hệ thiên văn gần đây. Nhật tức mặt trời không chỉ thể hiện thể hình tức chiếu ánh sáng, nhiệt độ khiến vạn vật tồn tại, Nhật còn biểu hiện ở thể khí tức tác động một dòng khí tới mỗi mệnh cách. Khởi giờ tháng năm sinh lập ra lá số tử vi hay tất cả các môn bát tự khác không ngoài nắm bắt chu trình của tinh hệ tác động tới mỗi nhân mệnh tạo ra và thời điểm gắn quy luật sẽ gắn Tinh đẩu ở dòng khí hình tới bản thân. Cũng như một chiếc xe chạy theo quỹ đạo trên đường đi cho trước trên bản đồ. Bản thân sinh mệnh khởi ở vị trí đầu, giữa hay một điểm cũng như xét ở giai đoạn bắt đầu tác khởi tới một vị trí của chiếc xe để nhận định sự biến động đưa ra dự đoán. Và khi bản thân thai sinh là khi bắt đầu một điểm trên bản đồ trên chuyến đi của nhân mệnh như ngồi lên chiếc xe và dự đoán chu kỳ tác động của tinh đẩu đã biết tới mệnh tạo. Trong dịch lý và xét khởi của Tử Vi Đông A phần định nguyên cách khí hình có xét rõ về tính dự đoán của toán mệnh và tinh đẩu khí tác động tới nhân mệnh như sự dịch chuyển quy luật ở trên. Do tính chất tác động theo quy luật dẫn hóa thành các tinh đầu hành vận qua trên lá số tử vi. Thường tiền nhân lấy việc trăng hút nước thủy triều là sức vô hình dạng khí tác động tới thủy khí ở biển hồ và nhân mệnh. Trong cuộc đời của nhân mệnh, luôn chịu tác động từng sát na, lại tính chất biến đổi có quy luật chu kỳ như thủy triều. Lấy một chính thể làm gốc tức ở thời gian Mệnh thai sinh nhập cung độ để dự đoán vận mệnh. Dụng trợ cách của Tử Vi Đông A thực tế dụng ở giai đoạn hóa hiện khi thể tác động tới tư tưởng mà thay đổi tư tưởng dẫn tới thể tính thay đổi. Như việc một cái cây phát triển theo hướng mặt trời, đặt ở nơi khác sẽ xoay theo khuynh hướng vậy. Thế phong thủy lấy cái bên ngoài tuy không mạnh nhưng ở gần thay đổi tư tưởng bố cục của phương vị xét.
2 comments:
Trong năm qua có lẽ tác giả gặp nhiều khó khăn phải giải quyết nên không đăng bài lên thường xuyên. Tôi là một độc giả trung thành rất ham nghiên cứu tử vi rất mừng khi được tìm hiểu thêm kiến thức giá trị từ thầy đã lưu lại cho thế hệ sau. Kính chúc thầy vạn sự trong cuộc sống.
Thực sự ban đầu nhận định về tử vi của tôi chỉ mang một phần của chữ tín tâm của bản thân không vì giải thích khoa học, đặc biệt tôi có đọc một số quyền sách cơ bản của tử vi có các câu chuyện về xuất phát các sao trong tử vi là các thần cai quản. Tử vi của phái đông a kiến giải rất sâu sắc về toán mệnh. Tuy có đôi chỗ tôi còn chưa hiểu rõ nhưng đại ý của bài viết giải đáp rất nhiều về triết học của Trung quốc, phương đông, vòng luân hồi với số mệnh không hoàn toàn là tâm linh. giải thích dụng chế hóa trợ cách của tử vi . Rất hữu duyên nếu được đàm đạo với anh bên ngoài đời thì có lẽ sẽ mở thêm tri thức cho tôi.
Post a Comment