Hai thế phát triển của Tử Vi tại vị trí của Đà La và Kình Dương. Một trước, một sau của Lộc Tồn. Thế của Kình Đà là thế thay đổi. Lộc Tồn là thế tích lũy. Quy luật của vạn vật cũng theo hai thế vậy. Kình Dương và Đà La được luận là Sát Tinh. Đây là hai sao quan trọng trong Lục Sát do khí sát của tính chất. Kình Dương chủ tiến công, cạnh tranh, chiếm đoạt. Với Kình Dương thiên về chiều sâu. Kình Dương có dương tính, mang ý nghĩa chủ động. Đà La chủ phòng thủ, cạnh tranh, chiếm đoạt. Với Đà La thiên về chiều rộng. Đà La có âm tính, mang ý nghĩa bị động khi phối hợp với các sao chủ nghe theo. Mệnh tạo luôn gặp một trong các cách cục cơ bản an theo Thiên Can gồm Kình Hao, Đà Hao, Lộc Tướng Ấn hay Thanh Phi Phục. Với Lộc Tướng Ấn và Thanh Phi Phục thường luận cách cục chủ cát. Bố cục Kình Hao và Đà Hao chủ sát. Do tính chất quan trọng của bốn cách cục cơ bản nên tác hóa tạo nên bản tính riêng của mệnh tạo, phối hợp với bố cục Chính Tinh thành tổ hợp. Người luận tử vi thường đánh giá tốt với Kình Dương hơn Đà La. Trong quan trường, thương trường hay chiến trường tức dụng tới tranh đoạt, hàm chứa Sát luôn gặp bố cục Kình Đà, biến hóa liên tục thay đổi tùy thời cơ sử dụng. Do đó Kình Đà luôn gặp Hao tại tam hợp tức hai sao chủ thay đổi phối hợp. Đà La có đặc tính quan trọng do âm kim, chủ mưu kế, mang tính chất bành trướng. Kình Dương do dương công thường bộc lộ, dương tính thực chất có khuyết điểm. Kình Đà luôn tồn tại khi có cạnh tranh, phát triển. Do thuộc Sát Tinh bố cụ thuộc Sát cách có tính bộc phát, hoạch phát lớn.
Báo quân đội có viết về sự phát triển của viễn thông quân đội. Chiến lược đặc biệt của Viettel dụng thế của Mao Trạch Đông chiến lược " Lấy nông thôn bao vây thành thị". Trong trận đánh Điện Biên Phủ lấy chiến lược tạo từng thế bao vây chắc chắn từng bước xiết chặt vòng vây, lấn, tấn, dũi. Hai chiến lược trên chủ tính chất của Đà La. Trong kinh thương hay chính trường không nằm ngoài hai thế Kình Đà. Cạnh tranh chủ thay đổi. Với bố cục Sát cách, thế bị động là thế chủ tai họa. Đà La chủ âm kim, mang ý nghĩa mưu kế, chủ lấy thế mở rộng, vây lấn đều là thế chủ động. Kình Dương chủ dương kim, mang ý nghĩa tiến công, lấy thế chiều sâu, đột phá làm trọng. Mệnh cách tùy Kình Đà cát dụng chế hóa Sát cách. Với Đà La trong bố cục Linh Xương Đà Vũ Kỵ đa phần mang họa với việc nghe theo, dễ rơi vào tai họa, hạn chí đầu hà khi ứng Đà La. Kình Dương trong bố cục Cự Hỏa Kình đặc biệt khi có Không Kiếp chung thân ải tử, tức phẫn uất mà sai lầm khi ứng tính chất Kình. Kình Đà khi thành tựu mang ý nghĩa hoạch phát rất lớn, tăng mạnh vị thế, khí hình của mệnh cách. Một Kình Dương nhập mệnh chế hóa Sát thành công với quyết định táo bạo, quyết đoán tấn công trong quan cách hay tài cách. Một Đà La nhập mệnh chế hóa Sát thành công với quyết định tính toán, bày mưu tính kế, chờ đợi thời cơ trong thế chủ động. Câu chuyện phát triển của Viettel mang ý nghĩa ứng hợp với sức phát triển mở rộng, mang tính chất của Đà La ngay ở hiện tại. Thành đi liền với Bại. Với Sát cách hoạch phát đi liền với hoạch phá do thời vận. Dễ biến hóa theo chiều hướng cực đoan nên luận có tính Sát. Tính hoạch phát rất lớn, đặc biệt nếu có Không Kiếp tới mức độ không ngờ mà được.
Kình Dương và Đà La luận từ vận thiên hạ, vận nước tới trong cơ thể. Bệnh tật là thứ nguy hiểm. Mệnh có Kình Tang giao hội Sát cách ứng hợp nội ngoại. Nếu bên ngoài cuộc sống khó khăn, chống lại hoàn cảnh, bế tắc. Cách cục Kình Tang chính là Kình Mã. Phú luận " Kình tứ mộ, Mã triều lai biên cương ắt hẳn trổ tài võ công". Hoặc bố cục Kình Phượng hay chính là Kình Khốc câu phú " Đồng Âm Kình Dương phùng Phượng Các nhất thế uy danh". Bố cục Cơ Nguyệt Đồng Lương với thế Đồng Âm và Cơ Lương. Bố cục Cơ Lương chủ thời cơ, cơ may. Đồng Âm chủ âm tính, phối hợp chung. Đồng Âm chủ âm nhu, với Kình táo bạo, tại đây là Kình Khốc luôn có Phượng chủ táo bạo được thời vận mà thành tựu. Hai cung độ Tí Ngọ chỉ hình thành được bố cục Kình Tang Khốc. Bố cục Tuế Hổ Phù không giao hội Phượng Khốc tại đây. Cách cục Đồng Âm ngộ Kình Phượng là bố cục Đồng Âm Tang Kình Mã Khốc Khách. Bố cục Đồng Âm có Tang Môn là cách cục chủ hình thành phe phái đồng lòng, với Kình Khốc đứng đầu. Câu phú thứ hai là bố cục trợ tinh giao hội của Kình Mã. Các câu phú cần rõ tính chất của bố cục tránh sai lầm khi luận. Nếu bố cục Đồng Âm Kình Phượng hội Tả Hữu tối hỉ. Kình Dương các câu phú luận đều rõ ý nghĩa cơ bản chủ táo bạo, dương công của sát tinh này. Phân biệt rõ Kình Dương giao hội Tang Hư Mã, Tuế Hổ Phù. Trong hai cách cục trên có thể gặp Phượng Khốc với sao Thiên Khốc hỉ ngộ Kình Dương tăng dương tính và thành tựu của bố cục.
Với sao Đà La phú thường luận mang ý nghĩa không mấy hay do Đà có tính ám, chủ âm tính thuộc âm kim tính Sát tức sát tinh. Do âm ám, chủ mưu kế. Thời Nho Giáo lấy nhân trí tín lễ nghĩa làm trọng, thường Sát tinh với Đà La mang ý nghĩa mưu kế thủ đoạn, dẫn tới định cách ý nghĩa xấu với sao này. Đà La bố cục phức tạp hơn Kình Dương và khó thành cách hơn Kình do Đà chủ bị động, bố cục chế hóa Đà La chủ mang ý nghĩa định đoạt, có tính chủ động tranh đoạt. Đà La thường luận trong cách cục Cự Đà Kỵ với câu phú thường gặp " Cự Môn phùng Đà Kỵ tối hung".
Đà La và Kình Dương đều có tính dồn nén, bộc phát. Đà La chủ chịu đựng lớn và phản kháng tính Sát khi bộc phát rất mạnh. Trường hợp thứ hai chủ chờ thời cơ dụng mưu kế. Kình Dương chủ thẳng, Đà La chủ vòng. Với Kình Tuế chủ quan điểm, bày tỏ rõ ràng. Cách cục Đà Tuế chủ lời nói vòng vo, phối hợp chính tinh chủ ngôn ngữ như Cự Môn và Thiên Phủ tính chất tăng mạnh. " Phủ Đà Tuế đóng Tỵ cung
Cuồng ngôn loạn ngữ nói rông tháng ngày".
Đà La do không phù hợp với Tuế Hổ Phù ở tính chất quan điểm. Khi giao hội với Tang Hư Mã hình thành cách cục Đà Hư chủ ưa nói sai sự thật, chủ che giấu nên khó đắc cách hơn với Kình Dương. Với bố cục Đà La thành tựu đa phần tính thâm trầm, ít nói. Đà La do âm kim khi hóa Quyền cách thành uy quyền do Sát, cơ mưu lớn. Tuy nhiên đa phần mệnh cách Đà La thường là bố cục bị động, tác họa do Đà La chủ nghe theo. Hoặc cách cục Âm Ám gồm Diêu Đà Kỵ tức Tam Ám giao hội. Đà La khi tốt chủ cơ mưu tính toán hơn người, mở rộng bành trướng. Thường mang ý nghĩa trái biệt, phi thường như cách Cự phùng Đà La sinh dị chí. Đà La thường gặp trong các bố cục bộc phát khi dồn nén, chủ loạn trí nên khi giao hội hình thành cách Đà Hỏa hay Linh Đà khó cát hóa. Với cách Linh Đà Kỵ Khốc chủ ác tâm do dồn nén mà ra tay làm hại mang ý nghĩa âm ám. Bố cục tốt của Đà La giao hội Văn Cách. Đà La tối hỉ ngộ Khoa, Xương Khúc. Đà La giao hội Phượng Khốc đồng độ với Phượng tốt hơn với Thiên Khốc. Với cách Đà Khốc khi tác họa thường bản thân gặp oan khốc. Bố cục Đà Hao cát hóa phức tạp hơn với Kình Dương. Tuy nhiên thành tựu đa phần lớn hơn do tính bộc phát rất mạnh.
2 comments:
Rat vui mung khi nguoi viet quay tro lai
Cảm ơn đạo hữu đã gửi lời hỏi thăm tới người viết.
Post a Comment