Trời Đất có họa phúc, con người có thời vận. Tử vi đông a trọng khí hình ứng hợp với trợ cách. Nắm được thời vận nghiệp rồng còn khả, huống tới phú quý thường tình.

Trong tử vi có bốn nhóm sao lớn gồm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật. Phân hạng người ngoài xã hội không ngoài bốn thứ vậy.

Một lá số tử vi hàng vạn người cùng giờ sinh vậy. Cũng như gieo hạt giống, phát triển biến hóa vô cùng tùy hoàn cảnh bên ngoài ứng hợp. Sinh trụ dị diệt cùng sở đích nhưng tùy khác biệt ở mức độ. Vòng khởi nguyên của mệnh số là vòng chuyển dịch, do biến đổi liên tục nên không có số phận.

Tuesday, June 26, 2018

Vận may và số phận


Mệnh Thiên Cơ hay Cự Môn hóa Kỵ trong bố cục Cự Cơ Đồng chủ bế tắc. Ở đây thuộc can Đinh và can Mậu. Mệnh cách có cách Kỵ Diêu hoặc Kỵ Đà, mạnh hơn với Diêu Đà Kỵ. Khi tiểu vận nhập cung độ có bố cục Sát Phá Tham hay tại tổ hợp Cự Cơ Đồng có Hỏa Tồn nhập bản cung hoặc giao hội là cách cục mang tính chất âm ám rất lớn. Tiểu vận có chữ Mậu, Đinh. Nguyệt vận can trùng phùng vậy thì trong tháng hình thành Lưỡng Kỵ hợp Kỵ đây là cách cục gặp ám tinh tác họa rõ rệt bởi vận rủi. Như trong tiểu vận năm nay thuộc Mậu Tuất tức năm 2018. Nguyệt Vận thuộc tháng Mậu Ngọ. Mệnh cách có Thiên Cơ nhập mệnh trong bố cục Cự Cơ Đồng tức Thiên Cơ cư tại Mão Dậu, Tị Hợi, Sửu Mùi sinh năm Mậu. Mệnh cách sinh Giờ Sửu với Thiên Diêu nhập mệnh. Hình thành cách Cơ Diêu Kỵ thì bản tính có Đào Hoa thuộc tham dục vọng, dâm tính mạnh. Đây là cách cục thuộc bản tính. Tới nguyệt vận như trên nếu đại vận tại bố cục Sát Phá Tham có Hỏa Tồn chủ nội tâm rối loạn lớn, gặp áp lực đè nén tới đầu óc. Cũng hình thành cách cục âm ám rất nặng. Nếu nhập vận Tham Hỏa Tồn do tiền tài mà mang họa. Nếu nhập Sát Hỏa do áp lực đè nén bản thân. Nếu mệnh Cự Môn luận với can Đinh trường hợp đồng độ với Thiên Cơ tại Mão Dậu tính chất tác động lớn như vậy. Thiên Cơ ở đây nhập Mệnh chủ bản tính, cũng chủ cơ hội, thời cơ. Khi chịu tác động lớn của Kỵ đặc biệt Lưu Kỵ phùng Kỵ có tác động rất mạnh. Đặc biệt nếu trong vận này với dụng Tài cách ưa kinh thương hay đầu cơ, may rủi thì dễ thất bại dẫn tới thất vọng bế tắc tuyệt mệnh. Tứ đổ tường cờ bạc hút sách. 




Trong các sao lưu kích động thì Hóa Kỵ tác động mạnh tới cách cục. Đặc biệt Lưu Kỵ gặp bố cục Sát tại mệnh vận. Với bố cục này người viết nhớ tới lá số của người cháu họ, nam mệnh cách cục Thiên Cơ cư Tị. Cách cục tuyệt mạng khi nhập vận Sát Phá Tham. Mệnh cách Cơ Tang Kỵ Diêu tại bản cung, giao hội Kình Linh Việt thuộc cách cục Cự Cơ Đồng với Thiên Cơ cư Tị. Tinh hệ trên thiên bàn có Tử Vi độc tọa cư Ngọ. Nam mệnh tính cách lễ phép, diện tướng thư sinh ứng hợp hoàn toàn Thiên Cơ. Mệnh tạo thuở nhỏ gia đình bất hòa, khó khăn, thường gặp nhiều nghịch cảnh về gia đình và cuộc sống. Mệnh cách Cự Cơ Đồng giao hội Kỵ Hình Tang Hư Mã đặc biệt với Cơ Tang đồng độ thì gia đình bất hòa. Thiên Cơ có Kỵ Diêu Tang trong nội tâm suy nghĩ có phần khác với người bình thường. Trong tư tưởng thường tự tồn tại mâu thuẫn, trường hợp nam mệnh xuất hiện chữ ám, từ nhỏ thường nghe thấy tiếng nói xui khiến trong đầu. Nhập vận Tham Hỏa đồng độ giao hội Tồn Phá Không Triệt Đào Hồng. Trong đại vận này nam mệnh xuất hiện tham muốn phát phú rất mạnh, Tham Hỏa Tồn với mệnh Cơ Diêu Kỵ Kình trong đầu óc chỉ suy nghĩ tới việc làm giàu, cả phi pháp, đương số theo đường cờ bạc. Khi lưu Lộc nhập vận thành cách Tham Hỏa ngộ Lưỡng Lộc có Không Triệt bất ngờ được thắng tiền theo cờ bạc. Lưu Kỵ về cung Mệnh hợp Kỵ nguyên thủy hình thành cách cục Cơ ngộ Lưỡng Kỵ Hình Linh Việt. Đương số gặp khá may trong đỏ đen nhưng gặp bế tắc lớn trong sự nghiệp bên ngoài. Nhập đại tiểu vận trùng phùng Sát Kỵ, trong đại tiểu vận Sát Phá Tham có lưu Kỵ vay nợ tin vào thành công khi dự đoán theo cờ bạc mà thất bại nợ lớn, hình thành cách cục áp lực lớn. 




Sát Hỏa Tồn dẫn tới tuyệt mệnh do " Hạn chí đầu đà". Cơ Kỵ Việt Khoa tạo cách cục thời cơ thời vận khi ứng hợp vận Tham Hỏa Lưỡng Lộc giao hội Không Triệt. Tuy nhiên tại đây cũng hình thành bố cục đại tiểu vận hóa Sát do Phá Hỏa Tồn tối kỵ với mệnh Cơ Kỵ Hình Kình Việt chủ không thể phá bỏ thay đổi thế bế tc, hình thành cách cục áp lực lớn mà trầm ải, Sát cách tác họa tai kiếp khó thoát với Cơ nhập Sát Hỏa Tồn là cách cục rất xấu với mệnh Thiên Cơ tác động lớn tới đầu óc. Bố cục Sát xoay vần chủ khách do khả năn tác hóa chế hóa Sát. Khi bố cục tác họa thì hoạch phá bế tắc. Khi bố cục thành tựu dụng Sát chủ hoạch phát tài danh. Chữ bất động biến động là tính chất chủ yếu của bố cục Sát. Do thay đổi linh hoạt nên Sát cách đắc dụng. Tử Vi Đông A luận mệnh rất trọng lý sinh tử. Khi đại họa tới thì Sát các nhập hóa tác họa lớn nhất, bố cục Sát phối hợp cách gây tuyệt mạng do Sát. Luận nguy khốn sinh tử cũng là việc quan trọng trong luận tử vi. Tuyệt mệnh tử vong bởi nhiều nhân duyên như bệnh tật, tai nạn,  tự ải,... tạo bởi các bố cục Sát Kỵ đa phần. Do đó Sát cách đặc biệt Hóa Kỵ là con dao hai lưỡi, mang tính Sát vượng, cũng mang tính thành tựu khác biệt. Mệnh có Thiên Cơ cuộc đời là duyên phận, thời thế, bản tính luôn hướng tới cơ hội, thời cơ. Do đó bố cục này tính toán lợi ích dễ bị đánh giá thấp nếu mệnh cách tần thường. Trời đất có thịnh suy, con người có thời vận. Sao Thiên Cơ nhập mệnh là chữ thời vận gắn với số phận mệnh tạo. Trong thời vận xuất hiện thường tạo ra khi khai thông bế tắc. Bố cục Cự Đồng Cơ là thế bế tắc. Cơ Nguyệt Đồng Lương là thế bình ổn. Mệnh cách thành tựu hoạch phát thường bởi cách Cự Cơ Đồng hóa Sát cách thành tựu. Nắm được thời vận là yếu tố thành tựu của mỗi mệnh tạo. 

Thursday, June 14, 2018

Luận tử vi mệnh cách ứng hợp

Trăm mệnh Cự Kỵ Hình đều là cách hình tướng khẩu lệch, tướng mệnh méo. Cách Cự Môn hóa Kỵ ở can Đinh nhập mệnh. Người nghiên cứu tử vi có thời gian nghiệm lý thì biết được Thiên Hình an theo cách khác với lệnh tháng là theo giờ sinh. Với mệnh tạo sinh giờ Sửu sao này an tại Tài cung. Sinh giờ Tị thì an tại Mệnh. Sinh giờ Dậu an tại Quan cung. Ba giờ sinh này có thể định cách sao Thiên Hình trong bộ Hình Diêu tác động mạnh tới mệnh cách. Do đó thường người viết định lá số chưa xác định thời gian lệch nhiều canh giờ hay khán hạn định số thường dùng các bộ sao an theo Giờ tác động tới tính cách để phối hợp đinh số. Mệnh tạo nếu có Cự Môn thuộc can Đinh, sinh giờ Tị Dậu Sửu trăm mệnh cả trăm đều có tướng trạng như vậy. Đây là nội cách bởi bản tính. Các bố cục Sát thường tác động quyết định mạnh tới bản tính. Tử vi diệu dụng ở định cách nội tâm. Khi chịu tác động bên ngoài xã hội, các bố cục như Cự Kỵ Hình bắt đầu ứng hợp và tác hóa phối hợp khí hình sinh ra biến hóa sai biệt với bên ngoài. Với bố cục này, mệnh tạo theo khuynh hướng hình pháp thì đắc dụng, theo khuynh hướng Quan Cách thì có họa do khẩu nghiệp. Sự biến hóa do chủ ý hay vô ý dẫn hóa bởi hoàn cảnh thực tế bên ngoài dẫn tới kết quả khác nhau, trong nội tâm tướng, bố cục ý nghĩa cơ bản vẫn không đổi. Cũng vậy nếu mệnh tạo gặp cách cục Cơ Kỵ Kình Hỏa Kiếp đồng độ trăm mệnh tất cả đều có vấn đề về đầu não, tư tưởng. Đây là cách cục ý nghĩa cơ bản của Thiên Cơ giao hội Sát cách lấy Hỏa làm nòng cốt. Thường là cách cục tâm ý cuồng loạn, luận rất nhiều lá số cách cục này mệnh tạo tâm thần bất ổn, có bệnh về dạng này, sát ý lớn có thể gây ra những hành vi tội ác. Trăm mệnh cách cục này đều luận vậy. Cũng với bố cục Tướng ngộ Đào Hồng Xương Khôi hay Tướng Phượng Khôi Khúc bản cung nhan sắc đều tốt đẹp. Trăm mệnh cách đều luận vậy. 



Khi biến hóa ứng hợp bên ngoài theo hoàn cảnh. Có mệnh tạo tạo tai họa hình pháp, có mệnh tạo cuồng loạn, có mệnh tạo dụng được bố cục Sát vượng tuy mưu tính nhưng thành tựu lớn. Cổ nhân luận toán mệnh chính tông nhắc tới trợ cách. Tuy nhiên an định cục diện xã hội không lưu truyền ngoài. Tử vi đông a luận cách cục lấy trợ cách là
Cũng vậy như cách Cự Kỵ Hình hay Cơ Kỵ Hình Hỏa Kiếp, hay cách Cơ Khốc Kỵ chủ bệnh tật về phế tức phổi là cách cục chắc chắn mang kết quả như vậy. Trong tử vi hình thành các bố cục trọng điểm tạo tai kiếp tuyệt mạng khi ứng hợp với hoàn cảnh bên ngoài thực, cũng có cách cục hoạch phát tài danh với các hoàn cảnh khác nhau bên ngoài hay khí hình. Hoàn cảnh bên ngoài tức thực tế, trên lá số tử vi chỉ là bố cục là Khí, hoàn cảnh thực tế là Hình. Ứng hợp là Khí Hình. Tử vi đông a dụng trợ cách là dụng bởi Khí Hình. Hình tác động để dẫn hóa Khí mang ý nghĩa ngoài thực tế của cách cục. Do vậy khi Hình tức hoàn cảnh bên ngoài như vận nước gặp chiến loạn thì dẫn các cách cục của tổ hợp mang ý nghĩa hóa theo. Mệnh tạo các khuynh hướng thời bình khác nhau hay mệnh tốt, mệnh an ổn đều ứng hợp dẫn hóa nếu Hình suy tuyệt thì Khí không có điểm dẫn. Tới cách cục mạng vong mặc mệnh cách tốt. Ở thời chiến loạn biên giới phía Bắc năm 1979. Quân Trung Quốc sang xâm lược bất ngờ nước ta với vũ khí, sát thương, sát ý lớn chủ tiêu diệt, tạo thành Hình mang Sát khí cực vượng. Những người dân thường và bộ đội nhiều mệnh cách tốt xấu đều dẫn hóa bởi Hình khiến các bố cục biến hóa dẫn tới tuyệt mạng cả mệnh tốt xấu. Những mệnh cách xấu mang tổ hợp ứng hợp cách như có Kỵ Hình Linh Việt quyết định cách chắc chắn tuyệt khí. 




Ở vị trí và thời gian khác nhau Sát cách của Hình biến động khác nhau. Vạn vật luôn biến đổi là lý thực của trời đất. Với mệnh cách xấu Kỵ Hình Linh Việt ở Hà Nội thì chắc chắn không vong mạng với Hình vậy, tuy nhiên dễ chết ở thời điểm khác. Ở trong hoàn cảnh vậy, mệnh cách Sinh khí cực vượng sẽ thoát được tai kiếp này. Nếu mệnh cách bố cục Lương Sinh Việt Tồn bất giao lai Sát Kỵ thì tổ hợp hình thành trọng điểm cách mang ý nghĩa phát may, thoát tai kiếp ứng với Hình vậy có thể thoát nạn. Tuy nhiên nếu Hình cách tạo Sát bởi vũ khí sát thương lớn hủy diệt mạnh hơn như hạt nhân ở Nhật Bản thì bố cục cần cát hóa cực vượng. Nếu hình thành cách cục mệnh vận Đồng Lương Sinh Tồn Kỵ Khoa Việt là cách cục bất phạ tai ương, đa phần may mắn rời đi khỏi tai kiếp họa hoạn. Lấy thí như vậy để rõ hơn về Khí Hình. Vì vậy nếu mệnh vận khá tốt đẹp khi vận thiên hạ xấu vẫn phải gặp tai họa.  Với hoàn cảnh tai họa thì vòng Trường Sinh có khả năng tác hóa cát rất mạnh, cũng có khả năng chế hóa Sát tuy nhiên nhiều người luận tử vi thường không coi trọng vòng sao này coi để luận sức khỏe. Các bố cục tai kiếp đa phần dẫn tới tuyệt khí tới tuyệt mạng. Với cách cục bệnh tật nan y cũng vậy. Vòng Trường Sinh tác động lớn tới Sát cách ở điểm trên, có thể chế hóa Sát cách. Trong tử vi có các mệnh cách nhất định hoạch phát tài danh, đây là cách cục do tổ hợp sao hợp hóa mang ý nghĩa tốt, bất luận xuất thân hoàn cảnh ban đầu đều có thành tựu lớn. Tuy nhiên các bố cục này không thường gặp như phú luận và có phần sai biệt với thường luận, đa phần ở bàng tinh, Lục cát tức Khôi Việt Tả Hữu Xương Khúc với Lục sát gồm Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp với Khoa Quyền Lộc và Kỵ Hình, ba vòng Lộc Tồn, Thái Tuế ( Phượng Khốc ) và Trường Sinh và quan trọng tại tính đồng độ của các sao khiến tính chất hóa hợp của các bố cục. Có mệnh thượng cách và hạ cách. Mệnh hạ cách không phải chỉ bởi Sát tinh trùng phùng, nhiều khi là bởi Khôi Việt Xương Khúc phối hợp sai cách dẫn tới mệnh ưa an nhàn, không có chí tiến thủ, vượt qua khó khăn bế tắc. 



Saturday, June 9, 2018

Bàn mệnh số tử vi cụ Hà Uyên với Sát cách



Cụ Hà Uyên sinh ngày 22 tháng 8 năm 1928 âm lịch, giờ Mão. Để tránh việc gọt số trò xin nêu tất cả những gì trò biết về cụ. Đó là cụ sinh ra trong một gia đình khá cơ bản, 14 tuổi cụ bỏ nhà ra đi làm cách mạng. Cụ sau đó được làm phó sau cụ Sùng Lãm. Cụ được nhờ vợ rất nhiều và cụ cũng học huyền học. 
Cụ Hà Uyên có cung trọng điểm tại Hợi Mão Mùi với các sao TUẦN KHÔI KHOA TUẾ, vận hạn trải qua đây tất có những biến động lớn, lại đi cùng bố cục TVL giao hội Sát Phá Tham nên có sự mâu thuẫn trong vận này, tuy nhiên bố cục cung trọng điểm này khá tốt đẹp, luận đến vận này cụ sẽ thành công nhưng cũng khá vất vả, thuận cho kinh doanh. Trò có đọc nhiều câu phú về bố cục Tử Vũ Liêm giao hội Sát Phá Tham nhưng không thấy có câu nào ca ngợi, chỉ có dâm, khó khăn, khúc toàn cố quý hay là không lợi quan trường, lợi cho kinh thương.
Mệnh thuộc Mộc, hợp với Thiên Cơ thủ Mệnh. Sao Thiên Cơ nằm trong nhóm CNĐL vốn tính ổn định cao, với Cự xung nên tính thành công sẽ không thể bằng cách Cự Cơ Mão Dậu, một phần do bố cục chính tinh đã phân biệt khi mà Cự Cơ Mão Dậu là tinh hệ Tử Vi Tý Ngọ với sự sắp xếp chính tinh khá hoàn chỉnh và đặc biệt là Tử Vi cư Tý Ngọ, nếu không bị phá cách luận không phải kẻ tầm thường. Phần khác là do bố cục CNĐL mang tính ổn định, được may mắn của bộ Cơ Lương. Ở đây là Cự xung, tính thị phi, tranh luận cũng khá nổi bật với đương số. Tuy nhiên bố cục này lại gặp Kình Hao. Thiên Cơ chủ cơ hội hợp với Kình Hao cần thay đổi, nhưng cả nhóm CNĐL lại không hợp. Bố cục chung là CNĐL ngộ Kình Hao với Tang Hư Mã có Phượng Khốc và Quyền Kỵ Tuần Kiếp nhập Sinh Vượng. Đây cũng là nói lên tính cách con người cụ, CNĐL ngộ Kình Hao mang tính chủ động, phản kháng với hoàn cảnh, tính bộc phát cao nhưng được sự ủng hộ, ngưỡng mộ của Phượng Khốc, sự đồng lòng của hoàn cảnh xung quanh, làm tăng thêm tính chất đứng đầu của Kình Dương, lại thêm Tang Hư Mã là sự chủ động trước khó khăn, vượt qua khó khăn mà thành công do nghi lực, ý chí của Mệnh (thời bình) và cách chiến binh với võ cách (thời chiến). Đó là nghi lực của người Tang Hư Khách. Khi khó khăn sẽ khiến cho bản thân mạnh hơn, thích nghi mà tiến xa hơn trong sự nghiệp. Ở đây có nhiều cách hay như Kình Phượng, Mã Sinh, Quyền Khốc nên cái Tuần Kỵ Kiếp kia cũng chỉ là tai họa khiến cụ mạnh mẽ hơn mà thôi. Bản thân cách Tang Kình Phượng tại Mệnh cũng là cách cục quyết đoán, chủ động trước nghịch cảnh. Sức khỏe cụ cũng rất tốt (Sinh Vượng)
Đại vận đầu tiên tại Mệnh cung với cuộc sống không được êm đềm với bố cục Cơ ngộ Kình Tang Phượng Kỵ nhập Vượng giao lai Đồng Lương ngộ Đại Kiếp Mã Khốc Khách nhập Sinh và Âm Hư Tuần Quyền. Cái khó khăn lớn đến từ cung Tài (ĐẠI KIẾP) dù được cát hóa bởi Sinh Vượng cũng ảnh hưởng đến cung Mệnh, khiến bản Mệnh có ý chí phản kháng, chống lại. Ý chí Sinh Vượng đó rất mạnh mẽ, lại ứng hợp với thời chiến nên cụ làm chiến binh. Bố cục có Đồng Lương nhập Sinh nên may mắn, phúc bền. Bố cục nhập Sinh mà hóa Sát thành Quyền. Cụ chủ động bỏ nhà đi theo cách mạng. Trò có nhớ là cụ Hà Uyên sinh ra trong gia đình cơ bản ở một nước thuộc địa, khí hình gốc như vậy luận thấp đúng k thầy? Với thời nay có lẽ cụ mà làm kinh doanh sẽ thành công lớn. 
Đại vận thứ 2 là cung độ Tử Phá ngộ Xương Khúc Khôi Thanh có Linh giao lai Vũ Sát Khoa Bật Binh và Liêm Tham Hóa Lộc Tả Phù Hồng Phi Tuần. Bố cục rối ren, nhiều mâu thuẫn cả trong nội tâm lẫn hành động. Tử Phá là 2 sao lãnh đạo trong Tử Vi, lại có Khôi Khoa Tuần Hồng nên cụ cũng được làm lãnh đạo, làm phó cho cụ Sùng Lãm. Bố cục Mệnh mang tính chủ động theo võ cách chiến binh, hạn TVP giao hội SPT lại có Phi Phục Thanh là cách chiến tranh. Cách Bật Khoa có tính cát hóa lớn, giúp định hướng tốt hơn, giải quyết xung đột, khó khăn. Tài năng cụ cũng hơn người với cách Nhị Khúc, Xương Khúc Khôi Thanh có văn hóa, trong thời đại đó càng hơn người, được làm lãnh đạo cũng đúng. Cung Hợi Mão Mùi ở đây là cung độ hay và thành công nhất của cụ.
Đại vận thứ 3 là cách VCD có Tiểu Phù Trì Diêu Y Thiên Không giao lai Cự Hổ Triệt và Dương Đà Tuế Hình. Bên ngoài xung là Đồng Lương ngộ Đại Kiếp Mã Khốc Khách nhập Sinh. Cự Môn ngộ Triệt lại đóng giữa Cự Tướng, đây là cách bị lộ, bi phản bội. Nếu ở thời bình có lẽ cụ bị phản bội nhưng ở mặt tình cảm do ở đây là hình ảnh người đàn ông gặp tam Ám. Nhưng trò đúng là vẫn chưa biết cách cục đi tù ở đây là gì, mong thầy chỉ điểm cho trò ạ. Liệu có phải cách Đồng Kiếp không thưa thầy? Vì hạn này trò chưa rõ nên vẫn chưa luận được hướng của vận sau, nên trò tạm dừng ở đây, mong thầy chỉ điểm giúp trò ạ. Trò xin chân thành cảm ơn thầy.



Luận Thai Tọa là an nhàn sau song sắt nhà tù thực là cách luận sai sót phần kiến thức để luận giải lá số tử vi. Cần xét điểm quan trọng của vận nước. Đây là thời chiến loạn, rối ren. Có sự tác động của quốc gia khác tới xã hội, bóc lột và cai trị. Vận nước tất cả đều chịu tác động thì tính tác hóa lớn nhất. Nếu lá số này thời bình luận hoàn toàn khác, mệnh cách thuộc ngành nghề hình pháp, đa phần là cách cục của luật sư, ưa hình pháp và vấn đáp, cự phản đối. Mệnh cách sinh ra trong bối cảnh thời vận này, nếu có Cự Môn thủ mệnh chính là bất mãn với chế độ cai trị, có tính nhân bởi Cơ Nguyệt Đồng Lương càng thúc đẩy cho hai chữ " Tạo phản". Các bố cục mệnh số giai đoạn này còn lưu giữ mệnh Cự Nhật hay Cự Cơ Đồng với mệnh thân Cự Môn giao hội Sát cách đều có khuynh hướng vậy, quan trọng là xét chỉ trong ý nghĩa tư tưởng, miệng lưỡi hay cả hành động. Ngay thời nay cũng vậy, mệnh Cự Môn đặc biệt Cự Kỵ thường có khuynh hướng chính trị, Cự Nhật cư Dần hay bởi đứng lên bày tỏ quan điểm phản đối với đường lối. Ba sao đứng đầu Cự Môn, Phá Quân và Tử Vi đều có lý tưởng, đường lối bên là ba sao dứng đầu trong thế chính tinh. Mệnh cách Cơ Kình Kỵ Tang Phượng nhập Vượng, Đồng Lương cách ngộ Đại Kiếp Mã Khốc Khách nhập Trường Sinh. Mệnh cách Cơ Nguyệt Đồng Lương có Kiếp Kình Kỵ Tang Khốc nếu không nhập vòng Trường Sinh ắt phải gặp tai kiếp lớn, không thọ. Định cách bởi Kỵ Sinh ngộ Đồng Lương có Kiếp là vượng khí, khí bất tuyệt thì mệnh thăng trầm nhưng không phải là mệnh yểu. Bố cục này đã chế hóa Kỵ Kình Cơ bởi huyền học thuộc Văn Cách. Cũng lá số người viết với cách cục này. Trọng điểm cách bởi chính bố cục Cơ Nguyệt Đồng Lương có Kình Kỵ Tang Kiếp Mã Khốc Khách nhập vòng Trường Sinh với Đồng Lương Sinh. Bố cục này là cách cục hay. Nếu theo kinh thương thì bạo phát thành tựu thương nghiệp. Đây chính là lá số chế hóa Sát cách ở mức khá vượng. Bố cục Cơ Nguyệt Đồng Lương dụng Sát cách nòng cốt bởi Kỵ, tối hỉ đắc vòng Trường Sinh. Đây là lá số đại vận thứ hai gặp khó khăn lớn, trong bối cảnh thời cuộc rối ren, Cự cư Thân, trong cách Cự Cơ Tí Ngọ nhập Mệnh Thân, với Tử Phá vận như vậy thuộc cách cục hướng tới đường lối. Do trọng điểm cung nằm tại Mệnh cách, do đó tác động bởi mệnh tới cách cục vận rất lớn. Đây cũng chính là lá số khác biệt với mệnh quần chúng. Tập trung bởi Sát cách ứng Kỵ Khốc Mã Kình Kiếp. Như việc Trung Quốc cách đây khoảng 1960 còn nghèo đói, số người chết đói rất nhiều, một Trung Quốc thấp kém so với thế giới. So với hiện nay gần 40 năm đã vượt đứng đầu thế giới về mệnh cách đại phú. Thời cuộc là như vậy. Vận nước tác động lớn như vậy, tuy nhiên người luận tử vi không rõ gốc thường tự ưa chỉ luận bởi lá số tử vi của mệnh tạo ra cả cuộc đời trong khi cuộc đời gắn xã hội, là thứ biến động. Chỉ sự biến động là bất biến.   Chữ phản kháng và cái nhìn khác không cam chịu do thân phận là gốc của đứng dây cách Kình Phượng, có quần chúng tôn. Lá số này do bố cục Sát cực vượng, xuất thân ứng hợp Văn Các thì hợp cách. Khí hình gốc vượng. Lá số này là cách cuộc đời rối ren do thế sắp xếp của Chính Tinh, chủ xung đột, khó khăn về đường lối, lý tưởng. Nếu mệnh cách không hội Sát cách vượng thì chỉ là mệnh thường, cam chịu khó khăn. Ở đại vận thứ hai bố cục này mang ý nghĩa tăng tính tranh đoạt, do mệnh cách thuộc tổ hợp cung trọng điểm, tác động mạnh, các đại vận luận theo bố cục này. Tính cạnh tranh, xung đột trong nội tâm hay cách bản thân nhìn xã hội trở nên lớn, bởi Tử Phá tức xung đột về lý tưởng, trong nội tâm cũng luận vậy. Cách vào tù là bố cục Cự Nhật ngộ Tuế Diêu Đà có Kỵ Kình Tang Cơ xung lại ở cung an Thân. Cách cục này vào tù do đứng lên phản đối bày tỏ quan điểm, được ngưỡng mộ, cũng là cách Cự Triệt phản kháng. Lưu ý nguyên do là bất đồng chính trị, đứng lên phản kháng ứng hợp thời vận thì hình ngục. Rất nhiều cách cục tù ngục biểu hiện bởi các bố cục. Ở đây là do lý tưởng, Cự Nhật dương lên phản đối trong cách cục trên thì không chỉ một lần. Xã hội thời trước tới nay, quan can gián dễ hình ngục. Do vậy nên cổ nhâm thường luận Cự hay Liêm dễ họa tù ngục. Nhìn được lý do thì luận ra bố cục, định được Sát cách. Cần lưu ý. Trong bối cảnh vậy, bên ta đang là kẻ nổi dậy, tất yếu kẻ đứng đầu, ưa phản kháng đấu tranh thì ngồi tù. Trong thời đại nay bố cục này thì lại của phe đối nghịch với nhà nước ta. Cũng thường là Cự Môn, bố cục này cũng vậy. Do hình thành đủ quan điểm, quần chúng đi theo. Người viết hay luận cách Kình Khốc hay Kình Hao Phượng Khốc mạnh bởi có quần chúng tôn theo. Cũng với cách cục này ở nơi khác thì thường tự tạo một đảng phái đứng đầu. Bố cục trên mang ý nghĩa vậy. Luận Sát cách thành thục gắn liền với Khí Hình thì rõ được nội dung biến động của giai đoạn. Nếu chỉ nhìn vào các bố cục thì thườn nhìn chỉ được họa hay phúc, không nhìn được thăng hay giáng. Luận mệnh quý là vậy. E rằng thời nay nhiều người luận mệnh cách này yểu mạng. Khi rõ thấu hơn thì thấy rối loạn của tử vi gây ra bởi nhiều người luận chưa tinh, thường có một phần nhỏ tự nhận định và đề cao bản thân thì dễ nhầm lẫn khi luận cách cục vậy. Mệnh cách vậy bố cục chế hóa Sát vượng, tuy có khuyết điểm nhưng vẫn thuộc cách cục mệnh quý. 



Monday, June 4, 2018

Khí vận quốc gia với bản mệnh


Nước ta là quốc gia đã trải qua nhiều giai đoạn chiến tranh, hình thành sâu trong tính cách của xã hội và tính cách chung của con người. Ở thời trước là giai đoạn khó khăn, trong khí vận của quốc gia, giai đoạn chiến tranh biên giới Tây Nam thường rất nhiều người lính thu cất giữ được vàng bạc và tiền tài, nếu luận cách cục với Phú cách ứng hợp mệnh đại phú. Tuy nhiên đa phần khi trong chiến dịch ở Tây Nam xong thì không còn cơ hội để lấy vì đã hi sinh, vì vậy nên thường có câu vàng kỵ với súng đạn. Xét trong bối cảnh với mệnh cách thì tài sản vàng bạc không còn giá trị như tính chất vốn có ở thời bình, trong cảnh sinh tử thì mới rõ tính mạng là giá trị lớn nhất. Khi thời bình đôi có người đánh đổi mạng sống, tự do để lấy tiền bạc, tranh đoạt phạm pháp. Nếu nhìn rõ mệnh lý khi sinh trưởng thời loạn thế, ở vận khí này tất cả bố cục đều biến động theo lý sinh diệt, tồn vong. Hai chữ Tồn và Vong. Ba vòng Lộc Tồn, Trường Sinh, Thái Tuế. Ba sao Không Vong. Bản thân mỗi mệnh tạo thường nhầm việc chính mỗi bản mệnh nắm giữ số phận của bản thân. Do đó luận lấy lá số tử vi của đương số làm trung tâm, nghiệm không đúng thực lý. Thực tế đôi khi ngay cả một quốc gia cũng bị một số quốc gia lớn khác tác động gây biến động mạnh, thông tin các nước nhỏ bị quốc gia lớn xâm phạm và lợi ích nhóm thấy rất nhỏ. Chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản. Thuộc địa trải khắp Đông Á, ở nước ta nạn đói gây ra đại kiếp chết rất nhiều mạng người. Thu nhỏ lại chính là mối quan hệ của mỗi người cũng vậy. Nguyên tắc kẻ mạnh là kẻ định đoạt, kể cả định đoạt được phải trái, chính tà . 


Ở phần giai đoạn bài viết hiện tại người viết luận sâu về bố cục ứng hợp thời vận và khí hình. Trước luận mệnh có Tham ngộ Hỏa Tang Kỵ Khốc có Hình Ấn là mệnh cách cục rất mạnh phát phú quý theo khuynh hướng chính trị, hình thành cách cục hoạch phát, các bố cục phù hợp thành tựu thời vận khi vận nước như vậy. Với hiện nay chữ Tham Lang yếu thế trước chữ Liêm Trinh. Có mệnh Tham được luận đã hóa Hình Tù. Tuy nhiên bố cục vậy vẫn là mệnh quý, đa phần thành tựu lớn. Tử Phủ Vũ Tướng Liêm và Sát Phá Tham thường thay phiên thay đổi theo thời vận. Tử Phủ Vũ Tướng Liêm mạnh bởi đường lối xây dựng, phát triển của Tử Vi đi liền với Liêm Trinh tức hình tinh có tính chất minh bạch, công khai, liêm khiết. Khi có Phủ Tướng chủ tình cảm, tương trợ thì cách cục Tử Phủ Vũ Tướng Liêm được quần chúng, hoàn chỉnh hơn Sát Phá Tham là phần dục vọng, tham muốn lợi ích riêng, cũng Sát Phá Tham biến động thăng trầm lớn. Có mệnh cách phát triển nhanh chóng nhưng gặp biến cố về tai nạn, sức khỏe, do tác động của bố cục Sát. Tới quốc gia cũng chịu tác động của các bố cục tác hóa, do quốc gia là hình ảnh đại diện của con người. Tất cả mọi người đều có mệnh lý. Tử Phủ Vũ Tướng Liêm thường trường tồn bởi ổn định. Sát Phá Tham mạnh bởi thay đổi ứng biến liên tục. Hai cách cục này có tính chất khác nhau. Giữ vững được đường lối Tử Vi bởi Liêm Phủ và Vũ Tướng phối hợp. Do đó Tử Vi cư Ngọ là cách cục đứng đầu vì hai chính tinh phối hợp thành cách. Liêm Phủ là soi xét quản lý và minh bạch. Thiên Phủ là kho, Liêm Trinh là soi sáng, dò xét bí mật của Thiên Phủ. Vũ Khúc là sao chủ hành động, Thiên Tướng chủ tương trợ, tình cảm. Vũ Khúc trợ lực Thiên Tướng. 



Do đó bố cục này luận hoàn chỉnh trong nội cách, dù toàn cục tức toàn bộ các bố cục Chính Tinh trên lá số vẫn có khuyết điểm. Một quốc gia từ thời trươc tới hiện tại ứng cách Tử Phủ Vũ Tướng Liêm hoàn chỉnh. Quốc gia hùng mạnh vấn do đó vẫn phải chịu tác động thời vận thịnh suy. Luôn gặp Phá Quân và Cự Môn tức ngoại xâm và nội xâm. Người rõ về lịch sử quá khứ hay hiện tại về quốc gia thì rõ không nằm ngoài các cách cục ý nghĩa vậy. Vạn vật đều biến đổi, luôn phải thay đổi hay thích nghi để tồn tại. Lý chế hóa Sát cách của Tử Vi Đông A không nằm ngoài điêm cốt yếu vậy. Khi luận vào các tổ hợp mới phân hóa thành các bố cục riêng rẽ. Luận tử vi nếu không rõ lý trên, hướng tới một lá số tử vi là một tờ giấy, bất động thì thường luận khuynh hướng gọt chân cho vừa giày. Đây là điều bản thân mỗi người luận đều khó thay đổi, đa phần đều ưa định ra một cách luận chỉ nhìn vào lá số ra được cuộc đời mỗi người, cà mặt sinh tử. Điều nay cũng như việc ta luận rằng mỗi người đều được sinh ra ở quá khứ và luận dự đoán đều phải bệnh tật, sau đó dẫn tới tuyệt khí. Dự đoán như vậy khi luận lá số tử vi tính không ứng hợp khí hình là vậy. Thực tế nếu không ứng hợp khí hình thì lá số tử vi chỉ là một tờ giấy, mô tả được các nét hạn chế của cuộc đời như trên. Khi luận như vậy. Thứ nhất, không luận được vận tuyệt mạng, vận sinh tử. Thứ hai không luận được vận hoạch phát, mức hoạch phát. Thứ ba không luận được vận suy bại, mức suy bại. Vì luận bố cục Sát không luận được tác họa hay dụng được Sát. Nếu Sát cách luận sai thì không nắm được tử vi. Chỉ luận được bố cục Chính Tinh, tính chất bố cục Chính Tinh là tính chất khởi điểm của bản tính, tuy nhiên tính cách thay đổi qua phát triển, ngay cả bản tính cũng biến đổi qua thời gian, chính là tính hạn chế khi luận lá số tử vi không có khí hình gốc và biến động tại khí hình vận. 




Người viết khi thời đầu nghiên cứu tử vi, thầy truyền dạy, thường nghiệm lý xét bố cục mệnh tạo yểu mệnh do thủy tai. Do bố cục này thường khác với bố cục tai nạn, cũng có thể lấy được nhiều mệnh cách hơn việc luận về lá số mệnh tai họa bởi sét đánh. Với mệnh cách tai họa bởi bom đạn rất nhiều cách cục tạo thành, cũng ứng hợp do thời loạn định cách không xác định, chỉ xét bởi Sát cách vượng tác họa. Mệnh cách thủy tai đã ứng nghiệm thường gây bởi Cự Môn, mang tính bất ngờ bởi Không Kiếp hay Cự Kỵ. Câu phú " Cự Kỵ nên tránh đò sông, Binh Hình Việt Hỏa mắc vòng binh đao" ứng nghiệm với cách cục mệnh vận trùng phùng bố cục Sát có cách cục này. Tuy nhiên khi luận bởi các lá số xuất hiện cách cục trên, có mệnh cách bố cục vậy, rất xấu, hay gặp cách cục trên đa phần các lá số không gặp tai kiếp thủy tai mà biến hóa theo các cách cục rất khác nhau. Có kẻ gặp thi phi lớn, có kẻ gây ra thị phi lớn, có thể bệnh nan y. Tuy nhiên đều là cách cục gây họa. Trừ trường hợp có Khốc tại vị trí này hình thành cách cục Cự Kỵ Khốc giao hội Sát cách là cách cục tạo nên danh lợi thành tựu lớn. Cũng có bố cục có Khốc gặp tai họa. Đây là cách luận theo ngọn biến hóa rất nhiều bố cục. Người viết nghiệm lý rất nhiều bố cục khác nhau, các cách cục tính chất riền rẽ, các cách cục giao hội trợ tinh và cát tinh như vậy. Sau này rõ bởi gốc rễ xuất phát sức ứng chế hóa khí hình của mệnh tạo, sự giao hội biến hóa của Ngũ Hành, hữu tình và vô tình. Nếu có người luận mệnh tạo có bao nhiêu nhà hiện tại, hay sinh trai gái, hoặc các tính chất khác như vậy đừng vội tin, dù có thể đúng một số phần, các môn toán mệnh để dụng luận mệnh là ý nghĩa then chốt, thứ đến là luận vậy thí như ngày mai địa kiếp toàn thiên hạ diệt như chiến tranh toàn cầu thì há chẳng số mệnh tốt xấu sai hết chăng. 




Lý của vạn vật vẫn kẻ mạnh thì hình thành Quyền cách. Các phân định Sát cách tử vi đông a luận rất rõ bởi khí hình dẫn hóa cách cục ứng bên ngoài thực tế. Trường hợp bất dụng, Sát cách hiển lộ, mẻnh không chế hóa, không thể định đoạt được Sát cách. Khi nhập vận trùng phùng, sinh tai kiếp. Như trường hợp gặp duyên kiếp mâu thuẫn, tác họa thêm gây thương tích, thậm chí vong mạnh hay sát mạng người khác. Trường hợp chế hóa khí hình vượng, với Sát cách hướng tới lý tưởng lớn, mang tính tham vọng. Khi nhập vận Sát trùng phùng, thành tựu hoạch phát, đột biến. Với tai kiếp hóa thành Quyền cách, với Không Kiếp thành đột phá thành tựu. Dụng Sát cách khác nhau như vậy. Cũng như một điển tích tử vi gồm hai lá số giống nhau, một người làm vua khai thiên lập quốc. Một người làm nghề nuôi ong. Chữ Phúc Đức mồ mả phát thực tế tượng của khí hình vượng tới cực vượng. Kẻ không rõ thường nghĩ là thực, mồ mả phát hay không phát mà thành mệnh quý.