Luận giải lá số Tử Vi phần đại hạn
Phần đại hạn khi luận giải lá số Tử Vi là phần rất quan trọng ảnh hưởng phần lớn tới kết quả khi tự luận giải lá số cho bản thân. Trong bài này người viết đề cập tới việc khi luận đoán đại vận và các cách cục của đại vận, tác động phối hợp với Mệnh, Thân, Phúc để đưa ra kết quả luận giải chính xác hơn cho lá số. Tuy nhiên cần nắm rõ việc một phần kết quả luận đoán đại vận do hoàn cảnh của đương số và khí hình của đương số tại vị trí địa lý hoặc do hướng đi của các đại vận trước tác động tới mà luận cát hung. Thí như việc đương số mệnh tốt tuy nhiên tới hạn trước gặp cách Võ Nghiệp khá tốt đẹp và chữ thời cơ của vận ứng với cách cục binh nghiệp. Trong thời buổi loạn lạc chiến tranh thì ra chiến trường. Vì vậy, ở đại hạn sau phải luận ở cách cục hướng đi của đại vận trước và cách cục hoàn cảnh ứng với sự bắt đầu chuyển dịch mới ở đại vận này. Khi luận giải lá số tử vi thì những phần trên khái quát dưới dạng bổ trợ cho cách cục của Mệnh. Tức coi việc luận giải toàn bộ lá số là sự chuyển động của tính cách bản thân từ khi mới sinh ra ở đại vận đầu tiên tới đại vận cuối cùng và đương số ban đầu khởi phát ở cung mệnh sẽ có nhiều tính cách ẩn cùng xuất hiện. Tất nhiên các tính cách này có thể nhìn thấy ở ba cung Mệnh Tài Quan tức tam hợp một hành hóa thành Kim Thủy Mộc Hỏa nên bản tính luôn có nhiều thiên hướng bắt đầu đi tới các đại vận và thành bại ở các đại vận tùy thuộc vào những sự tác động của các phần lớn đã luận ở trên. Tuy nhiên cần phân biệt mức độ tác động khi luận giải lá số tử vi của các phần này, quan trọng nhất thể hiện ở tại đại vận tức cung độ đại vận hiện tại có hợp phá so với mệnh tạo và đại hạn trước. Tức cách này xét tới việc thay đổi về tính chất của bố cục sao trong tử vi khi chuyển động. Kế tới việc sự ứng tính chất trên lá số tử vi tới hoàn cảnh bên ngoài sử dụng và khí hình của đương số tức mức độ xuất phát khi khởi hạn. Khí hình của đương số thường được hiểu như việc xuất phát địa vị bản thân, như việc bản thân là con vương, tướng khác với sinh ra bần hàn. Tức đây là mức độ có thể tác động tới xã hội của bản thân tạo ra ngay tại thời điểm của đại hạn. Hai phần này rất quan trọng khi luận giải đại vận của lá số. Tất nhiên khi luận cần phối hợp các phần lại và cái thể hiện ra chỉ cần kết quả của đại vận mà người luận giải cần khái quát. Tuy nhiên các bước khi luận cần thiết phải đầy đủ việc luận mới có thể chính xác. Mệnh tạo là tính cách bẩm sinh của đương số, khi luận mệnh cần nhìn ra hướng đi của mệnh tạo do bẩm sinh hấp thụ khí của phụ mẫu mà tạo thành hướng đi cho mệnh tạo. Đương số khi có hướng đi từ mệnh thì việc luận giải lá số có gốc sẽ trở nên đơn giản hơn khi không nắm rõ tính chất của bản tính khởi từ mệnh. Khi mệnh tạo bắt đầu khởi đại vận 10 năm ở cung độ này đương số hoàn thiện phần tính cách ẩn và hiện của mệnh tạo. Với tính cách ẩn thì cần khởi phát bởi các cách cục từ các đại hạn hay tiểu hạn. Với tính cách hiện thì luôn biểu hiện khi tính cách ẩn không thể hiện ra ngoài. Cung độ thứ hai của đại vận là cung Phụ Mẫu hay cung Huynh Đệ cho biết việc liên quan giữa bản thân với cha mẹ hay với huynh đệ nhiều hơn. Nếu khi đại vận theo chiều đi theo cung Phụ Mẫu thì tiếp theo sẽ là cung Phúc Đức, cung Điền Trạch và cung Quan Lộc.
Nếu đại vận chiều ngược lại sẽ gặp cung Huynh Đệ, cung Phu Thê, cung Tử Tức và cung Tài Bạch. Thường thì các sách ít luận về việc dịch chuyển các cung vị ở đại vận tuy nhiên nếu không nắm rõ phần này sẽ luận giải khó khăn khi nhìn chuyển động của đại vận. Để đơn giản hơn khi luận giải có thể gắn những tên các cung với ý nghĩa của một chính tinh thì khi luận giải sẽ không bị nhầm lẫn với các cung độ này. Khi cung Mệnh dịch chuyển tới cung Huynh Đệ thì đương số chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng của anh em trong nhà khá lớn tới mức độ cát hóa của đại hạn. Ở cung độ này thường mang tính chất cạnh tranh. Khi đại vận chuyển nghịch tới cung Phụ Mẫu chịu ảnh hưởng của cha mẹ nhiều hơn tới bản thân. Vì vậy thường tuổi ứng với bắt đầu cung đại vận từ 12 tới 16 chịu tác động lớn của cha mẹ hay anh em trong việc hình thành tính cách. Nếu cung đại vận tới vị trí cung Phúc Đức thì đương số dễ gặp những thứ liên quan tới cung này. Nếu trường hợp đi tới cung Phu Thê thì đương số đa phần trong hạn này chú ý liên quan nhiều tới hạn tình duyên, hôn nhân, và tính chất cát hung được biểu hiện đầy đủ trên lá số ở cung độ bản cung và toàn bộ tổ hợp. Nếu theo hướng đi cung Phu Thê thì đại vận sau tới cung Tử Tức sự chú ý của tâm hướng tới cung độ này, liên quan tới con cái. Tất nhiên khi coi việc tên cung độ tương ứng với Chính Tinh thì mỗi cung tiếp theo đều có liên quan lớn tới cung trước đó. Như việc cung Phu Thê tồn tại cách cục xấu khi không có con thì cung Tử Tức tức đại vận hiện tại sẽ biến đổi theo chiều hướng khác mặc dù cung độ Tử Tức tốt hay xấu. Nếu theo hướng đi cung Phúc Đức thì cung độ tiếp theo là cung Điền Trạch. Cung độ này xuất phát từ việc cung Phúc Đức đi tới cần thiết phải liên quan tới việc Phúc đức. Khi tới cung Điền Trạch thì ngôi nhà của bản thân hay việc liên quan tới mồ mả của đương số, những thứ từ cung Phúc Đức tiếp tục tác động tới cung độ này. Luận giải lá số đại vận xác định đại vận gặp bốn nhóm sao chính là Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, Sát Phá Tham, Cự Nhât, Cơ Nguyệt Đồng Lương. Các cách cục này có thể giao hội hình thành nhiều cách cục đặc trưng. Khi luận theo các tổ hợp này. Mệnh tạo phối hợp với các tổ hợp này mà tạo ra các ý nghĩa khác nhau. Khi luận giải ở mức độ cơ bản việc nhìn các Thiên Can tự hóa của bản cung đại vận để an toàn bộ các lưu đại hạn là không cần thiết và gây phức tạp cho việc luận đoán. Nhìn chung chỉ cần xét mức độ ở bản cung, các cung tam hợp, ý nghĩa tổ hợp toàn bộ cách cục và cung độ nhị hợp phối hợp với cung Mệnh, Thân để cho ra kết quả. Lưu ý việc phối hợp với cung an Thân là quan trọng để đưa ra kết quả của đại vận. Cung an Thân đặc biệt trong các trường hợp tách biệt riêng với Mệnh tức ở Phúc Phối Di cần luận riêng khác với trường hợp vòng tam hợp Mệnh Thân cùng nhau. Luận giải phần đại hạn của lá số khi phâm biệt được các phần trọng yếu thì bắt đầu luận phối hợp Chính Tinh và Bàng Tinh để đưa ra ý nghĩa của toàn bộ tổ hợp. Khi luận như vậy tránh được việc nhầm lẫn khi phân mức độ tâc động khi luận giải. Một số còn quan trọng luận cả phần ngũ hành của tam hợp hạn so với tam hợp mệnh, ngũ hành chính tinh bản cung hạn khiến luận đoán trở nên khó khăn hơn.
0 comments:
Post a Comment