Luận giải khi mệnh xấu hạn tốt
Khi luận giải tử vi việc phân biệt rạch ròi giữa tác động của mệnh thân hạn tác động tới việc cát hung của đương số rất quan trọng và khó khăn trong việc xác định. Nhiều trường hợp mệnh rất tốt, hạn xấu tuy nhiên trong đại hạn hoạch phát được thành tựu lớn. Trường hợp thứ hai là mệnh xấu, đại hạn tốt cũng đạt được công danh. Tuy nhiên một trường hợp cũng hay gặp là mệnh xấu, hạn tốt cách cục vẫn bị phá khiến mệnh tạo không thể thành công. Qua nghiệm lý các lá số tử vi thì đa phần các lá số vào trường hợp thứ nhất và thứ hai. Trường hợp thứ ba tính xác thực tuỳ vào từng lá số và cách cục. Tất nhiên là chỉ xét thành tựu hay tai hoạ của đương số ở mức độ khí hình của chính tư tưởng đương số, không xét tới mức độ của xã hội vì giữa hai địa phương tức vận làng khác nhau đã khiến kẻ nghèo nhất của nơi này khác hoàn toàn về khả năng, đặc biệt ở các địa phương bên cạnh đô thị sự cách biệt lớn hơn. Tuy nhiên nếu xét về chính mặt tư tưởng của đương số thì tương đối đúng. Tức nếu viết lại cuộc đời của một người thì các nét chính có thể lấy lá số tử vi để xem được, nếu xét tới cả địa vị xã hội thì cần thêm thông tin mức độ của khí hình trong chính bản thân đương số để đưa ra kết quả dự đoán đúng. Mệnh xấu hay tốt được luận tuỳ theo cái nhìn của mỗi người, tuy nhiên với tiêu chuẩn chung thì có chữ Phú, Quý và Thọ là cách cục tốt đẹp, bên cạnh đó việc tinh thần của đương số cũng quan trọng khi luận một cung mệnh tốt đẹp. Tiền nhân chia cung mệnh bằng các Chính Tinh và đặt luôn cả vị trí cho các chính tinh bằng kinh nghiệm để luận miếu địa, vượng địa, đắc địa, hãm địa. Một số sách thì chỉ luận dựa trên miếu địa và hãm địa. Tuy nhiên cách luận cung mệnh theo cách như vậy dễ gây nhầm lẫn cho người mới luận do không hiểu rõ việc tác động trong yếu của bàng tinh khiến cách cục thay đối theo các chiều hướng khác nhau, đặc biệt là có những sát tinh nặng như Không Kiếp phá cách toàn bộ cách cục tốt đẹp tạo ra. Vì vậy, sau đó việc vị trí của các chính tinh trong tử vi chỉ có ý nghĩa là biểu hiện nên tính chất và quyết định ở tính chất cơ bản của chính tinh. Luận bằng các tính chất cơ bản khiến việc xem tử vi trở nên bớt huyền bí, cái mà một bộ phận lớn người xem tử vi ưa thích khi luận giải cho đương số. Tuy nhiên việc đánh giá sự tác động của các tổ hợp sao khó khăn vì vậy mất nhiều thời gian hơn. Cách mệnh cục xấu không phải là mệnh tạo gặp các Chính Tinh ở vị trí hãm địa hay gặp nhiều Sát Tinh trong Lục Sát mà ở việc phá cách hay hợp cách liên quan tới ba chữ Phú Quý Thọ nêu trên. Việc một lá số thường mất đi mặt này hay mặt kia do tính chất của Lục Sát phân bổ ở 12 cung có thể hợp cách hay bất hợp cách, hoặc ngay cả các sao là cát tinh nếu phá cách tai hoạ lớn không kém phần sát tinh phá cách. Luận theo tính chất về một mệnh tốt khác việc luận một cung mệnh tốt đẹp, luận mệnh số cần thiết xem cả 12 cung độ bởi vận hành lá số phần tiểu hạn luôn qua 12 cung và đại hạn thường qua nửa số cung nên qua cả bốn bộ tam hợp Tị Dậu Sửu, Hợi Mão Mùi, Dần Ngọ Tuất, Thân Tí Thìn. Tuỳ theo cung mệnh thuộc một trong các nhóm sao lớn gồm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật giao hội lần lượt hai nhóm sao Tử Phủ Vũ Tướng Liêm và Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương và Cự Nhật với nhau sinh ra các cách cục dị biệt. Tuy nhiên ở tổ hợp Mệnh Tài Quan gặp một trong các nhóm sao đều có nét đặc trưng riêng về mức độ của chữ Phú Quý Thọ.
Nếu gặp Cơ Nguyệt Đồng Lương là cách văn nhân, tính chất lãnh đạo, đứng đầu không lớn, vì vậy đắc cách thiên về tiền bạc và chữ thọ. Nếu gặp cách cục Tử Phủ Vũ Tướng Liêm đắc cách chủ về tính tổ chức, chủ về danh và tài, cũng chủ đứng đầu một tổ chức lớn, mang vác trách nhiệm lớn. Với cách cục Sát Phá Tham chủ về danh và tài nhưng mang tính chất hoạch phát tài danh, không có tính tổ chức và phân công công việc như cách cục Tử Phủ Vũ Tướng Liêm. Với cách cục Cự Nhật chủ về chữ danh, danh tiếng của cách cục này do sự bất mãn với lý tưởng của Tử Vi, cũng có tính tổ chức nhưng cách này khó có thể khai sáng mà dựa vào hành của sao Tử Vi để đưa ra phản đối, ở thời Phong Kiến bộ Cự Nhật là cách phản đối, can gián vua nhưng khi không được quay ra làm phản. Cung Mệnh tạo tùy từng cách cục mà phân ra tốt xấu, khi mệnh xấu và trường hợp cung đại hạn tốt thì cái bản chất, tính cách đôi khi được rèn luyện để gặp hạn thành công lớn, trường hợp xấu là mệnh tạo ý chí không lớn, ưa an phận nên tới hạn tốt gặt hái được ít thành tựu coi là đủ mà bỏ dở công danh sự nghiệp nên thất bại. Cung Đại Hạn tốt đẹp cần thiết là bản cung phải đắc cách, kế đến toàn bộ bố cục đều tốt đẹp, xét việc tính chất của bản cung hạn có hợp với mệnh tạo, tùy theo cách cục hợp hay bất hợp của hạn mà luận cát hung. Nếu bản thân tam hợp cung của hạn là Cơ Nguyệt Đồng Lương có Triệt Tuần tại bản cung, ví dụ như vị trí sao Thiên Cơ là hay tuy nhiên nếu mệnh cách có sao Tử Vi hay Thiên Phủ tọa thủ màn ý nghĩa xấu hơn vì đại hạn là cái biến đổi, đại hạn có Triệt Tuần đi với sao Thiên Cơ hình thành cách Cơ Triệt Tuần mang họa cho Tử Vi hay Thiên Phủ, tức hoàn cảnh mới ở thế động khiến cung mệnh ở thế tĩnh với cách cục ban đầu biến chuyển theo cung đại hạn. Cũng tương tự như vậy với Tiểu Hạn nằm trong Đại Hạn. Với Tiểu Hạn hợp cách cần thiết phải hợp với cách cục của Đại Hạn. Cung Đại Hạn như một tính cách trong thời gian dài, gặp Tiểu Hạn là sự biến đổi trong thời gian ngắn của cách cục, do Tiểu Hạn là thay đổi thời gian ngắn nên phụ thuộc lớn vào Đại Hạn tốt hay xấu. Cũng như vậy, cung Đại Hạn phải phụ thuộc vào tính cách hay còn gọi là bản tính ban đầu, ý chí ban đầu của mệnh tạo. Trường hợp cung Tiểu Hạn quá xấu nên biến đổi trong thời gian ngắn khiến Đại Hạn biến đổi tính cách theo chiều hướng xấu, nếu Đại Hạn xấu và Tiểu Hạn xấu mức độ khiến ý chí, tư tưởng của ta theo chiều hướng xấu cho tới rất xấu là vong mạng. Vì vậy, trong trường hợp Mệnh, Đại Hạn tốt đẹp và Tiểu Hạn rất xấu cũng không đáng lo ngại, có thể dụng được cách cục. Trong trường hợp Mệnh rất xấu mà Tiểu Hạn và Đại Hạn đang tốt đẹp tức tư tưởng theo chiều hướng gây họa nhưng biến chuyển theo chiều hướng tốt lên. Tuy nhiên thường thì Mệnh rất xấu khi qua Đại Hạn đầu tiên ở cung Mệnh khó vượt qua. Trường hợp Mệnh xấu, ở mức độ có thể vượt qua khi Đại Tiểu Hạn qua đây thì tới Đại Hạn tốt đẹp cũng khó mà thành tựu lớn nếu không gặp Tiểu Hạn tốt, vì tính cách là động nên nếu được hai Đại Hạn liên tiếp tốt đẹp thì khả năng thành công lớn. Cung Mệnh thực sự quan trọng khi luận giải tử vi nhưng nếu không tốt đẹp chưa kết luận số tốt xấu vì còn các Đại Hạn, Tiểu Hạn. Với mệnh tốt nhưng Đại Tiểu Hạn xấu thì dễ mang tai họa. Mệnh xấu thì cục diện cuộc đời thường khó khăn vì mệnh là bản tính.
3 comments:
Bác chia sẻ phần khó trong sách không biết rõ, mở được nút thắt bác ạ.
Có những cái đơn giản nhưng người khác hay làm phức tạp hơn vì một lý do, sách viết thì thường cô đọng nên phải nghiệm lý để rõ ngọn ngành.
Cháu có đi nhờ một thầy xem về tử vi, thầy có nói mệnh thân hạn thì hạn quan trọng nhất, hai cái kia bình thường vẫn được. Số của cháu thì cũng như vậy, thấy thầy bảo là đại hạn này phát tài mà ko biết thế nào ạ.
Post a Comment