Trời Đất có họa phúc, con người có thời vận. Tử vi đông a trọng khí hình ứng hợp với trợ cách. Nắm được thời vận nghiệp rồng còn khả, huống tới phú quý thường tình.

Trong tử vi có bốn nhóm sao lớn gồm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật. Phân hạng người ngoài xã hội không ngoài bốn thứ vậy.

Một lá số tử vi hàng vạn người cùng giờ sinh vậy. Cũng như gieo hạt giống, phát triển biến hóa vô cùng tùy hoàn cảnh bên ngoài ứng hợp. Sinh trụ dị diệt cùng sở đích nhưng tùy khác biệt ở mức độ. Vòng khởi nguyên của mệnh số là vòng chuyển dịch, do biến đổi liên tục nên không có số phận.

Tuesday, June 27, 2017

Có nên chọn phối ngẫu tháng sinh Tị Hợi ?



Có nên chọn phối ngẫu tháng sinh Tị Hợi ? 


 Nhân tiện có một số câu hỏi về việc làm quen người khác giới sinh ở tháng 4 và tháng 10 theo lịch âm tức mệnh tạo của đối phương thường gặp phải Không Kiếp với sinh tháng 4 là Mệnh Không Thân Kiếp và tháng 10 là Mệnh Kiếp Thân Không. Thực chất phải sinh tháng 4 giờ Tí Ngọ và tháng 10 giờ Dần Thân mới gặp cách cục đặc biệt này. Tuy nhiên chỉ xét ở mặt tháng sinh thì tháng 4 có sao Thiên Không tại cung Thiên Di và tháng 10 có sao này cư tại mệnh. Sinh tháng 2,6,10 luôn bị sao Thiên Không tại cung Mệnh Tài Quan, dễ gặp thêm Địa Kiếp đồng cung hay tam hợp, chỉ trừ vị trí Tí Ngọ Thìn Tuất chỉ có mình Thiên Không, không có Địa Kiếp và vị trí Dần Thân với bộ Không Kiếp xung chiếu lẫn nhau. Vì vậy nên tháng Tị tức với tháng 4 âm lịch mệnh tạo lập tại tháng này thường gặp chuyện bất ngờ khi ra bên ngoài đường, xã hội, không luận với tính cách tuy có thể gặp Địa Kiếp tại bản cung mệnh khi mệnh cư tại Dần Thân. Phần nhiều mệnh đoán với sao Thiên Không hay cả cặp Không Kiếp hay đi đủ bộ tại tháng Hợi. Nếu chọn người bạn hay các mối quan hệ giao tiếp hay đặc biệt hơn đáng quan tâm là phối ngẫu có tháng sinh tại tháng Hợi thì có một số điểm chung của người này, tuy nhiên không mặc định gặp bộ Không Kiếp là tính cách xấu tốt. Cũng như việc sinh tháng Tuất tức tháng 9 âm lịch mệnh tạo luôn có sao Văn Xương thủ tại mệnh luôn có đặc điểm chung dù cac bàng tinh khác hay các Chính Tinh thủ mệnh, tuy nhiên cũng như trên không có nghĩa là mệnh có bộ Xương Khúc là tính cách tốt đẹp mặc dù phú tử vi hay ca ngợi bộ Xương Khúc và dành lời chê bai cho bộ Không Kiếp. Thực tế ngoài cuộc sống ta cũng hay gặp những người được khoác vẻ bên ngoài tri thức, có học đàng hoàng nhưng làm những việc trái với pháp luật và những người trông cục cằn, thô lỗ nhưng có đầy lòng nhân hậu bên trong. Ở đây xét tới cách cục dễ gặp đủ bộ là Không Kiếp khi tháng sinh ở tháng Hợi luôn có một đặc tính là sự khác thường trong tính cách với những người xung quanh. Qua khảo sát rất nhiều người có tháng sinh này thì quan trọng nhất trong tính cách là sự bộc phát trong tư tưởng về nghĩa đen. Lần mò tìm kiếm trên trang mạng google tôi cũng tìm được nhiều người nổi tiếng có cách cục này. Vua Lê Long Đĩnh là vị vua cuối cùng của triều đại nhà Tiền Lê, tổng thống James A. Garfield, vua nước anh Charles I,... nhiều người mà tôi nghiên cứu là những vị vua, hoàng đế của các quốc gia. Mặc dù có thể trong đó có một số vị cua có thể sai tháng sinh do thông tin chưa chính xác của mạng google nhưng quan trọng hơn hầu như những người này có cùng một chuỗi các sự kiện và kết quả chung lẫn nhau cho thấy sức mạnh của bộ Không Kiếp đại sát tinh bẻ gãy tất cả các cách cục cát tinh, gây bất ổn cho toàn cục. Vua Lê Long Đĩnh nổi tiếng là tàn bạo và dâm loạn ở trong lịch sử nước ta. Vua còn được cho là giết anh trai Lê Trung Tông, lấy hành sự giết người là thú vui. Nhà sử học Trần Trọng Kim đã đúc kết toàn bộ sự nghiệp của ông vua cuối cùng nhà tiền Lê: "Long Đĩnh là người bạo ngược, tính hay chém giết, ác bằng Kiệt, Trụ ngày xưa. Khi đã giết anh rồi, lên làm vua thường cứ lấy sự giết người làm trò vui: có khi những tù phạm phải hình, thì bắt lấy rơm tẩm dầu quấn vào người rồi đốt sống; có khi bỏ người vào sọt rồi đem thả xuống sông. Làm những điều ác như thế thì lấy làm thích chí. Một hôm lấy mía để lên đầu nhà sư mà róc vỏ, rồi thỉnh thoảng giả tảng nhỡ tay bổ dao vào đầu sư chảy máu ra, trông thấy thế làm vui cười. Còn khi ra buổi chầu, có ai tấu sớ điều gì thì cho những thằng hề nói khôi hài hay là nhại tiếng làm trò". Điều quan trọng ở trong tính cách cục vị vua này là sự THẤT THƯỜNG, hành sự sơ cuồng trái với đạo đức. Tính Sát vượng và hoang dâm vô độ khiến ông bị đóng đinh chết. Tuy nhiên thực chất mọi chuyện đúng sai khi cuối triều đại và trong sử sách của các triều đại phong kiến với mục đích yên dân tức diệt triều Lê để đổi ngôi sang triều nhà Lý khiến an dân không thể xác thực. Chỉ có thể nói rằng tính Thăng Trầm trong tính cách và sự nghiệp của Lê Long Đĩnh và việc bị hành quyết chết bí ẩn khi mới chỉ 23 tuổi là một dấu hỏi xung quanh bộ Không Kiếp. Với vị vua Charles I thì thọ hơn vua Lê Long Đĩnh khi sống tới 48 tuổi. Vua Charles cũng muốn cai trị đất nước bằng quyền lực thiêng liêng của các vị vua. Nhiều chính sách cải cách theo ý muốn của ông bị phản đối và ông được coi là một ông vua chuyên chế, bạo chúa như Lê Long Đĩnh. Vua Charles chịu kết quả bị hành hình là chặt đầu vào năm 48 tuổi. Ông cho rằng ông chỉ phải chịu trách nhiệm với Thượng đế. "Các ông hoàng không bị ràng buộc phải nói lý do những hành động của họ," ông viết, "trừ phi trước mặt Chúa". Vua Charles cũng muốn phá bỏ cái truyền thống và sáng tạo việc cải cách các chính sách. Với tổng thống của nước Mỹ là James Abram Garfield thì thọ hơn được 49 tuổi. Ông mới nhậm chức tổng thống được 200 ngày thì bị ám sát. Ông nỗ lực tăng uy quyền của tổng thống và thay đổi việc thuê người của chính phủ, là thành viên duy nhất của hạ viện được lên làm tổng thống. Ông cũng mang tiếng là tổng thống bị lãng quên nhanh nhất lịch sử. Việc ông bị bắn cũng ly kỳ khi bác sĩ lần đầu quên bỏ cả ngón tay chưa rửa vào khiến vết thương bị nhiễm trùng, một bác sĩ khác đưa cổ tay vào làm thủng gan. Từ lỗ thủng 7 cm thành vết nhiễm trùng 50 cm do 16 bác sĩ nhúng tay vào thêm. Khám nghiệm cho thấy vết thương không hề nghiêm trọng đến tính mạng mà ông chết do nhiễm trùng nặng, sau đó nhiều bài báo viết rằng nếu các bác sĩ không chữa trị cho ông thì có lẽ ông sẽ không phải chết trong đau đớn trong suốt mùa hè. Tuy nhiên với tổng thống James Abram Garfield cũng có thành tựu cải cách đáng kể cho nước Mỹ. Ba ví dụ trong rất nhiều mệnh có sao Thiên Không và có người mang tính cách tốt đẹp, có người mang tính cách xấu. Tuy nhiên với việc chọn phối ngẫu có mệnh tạo là bộ Xương Khúc thường được sự bình ổn hơn việc có Không Kiếp tại mệnh tạo. Có những Không Kiếp phải chịu bất hạnh với cuộc sống nghèo khổ như tổng thống James Abram Garfield của Mỹ để leo tới đỉnh cao của quyền lực bằng tài năng bằng sự hoạch phát. Tính ổn định của bộ Không Kiếp khó có thể đạt được mà thay vào đó là sự thăng trầm thất thường ngay cả với những Không Kiếp đắc cách nhất, tốt đẹp nhất. Tùy theo số phận mà sẽ dẫn chúng ta tới những người bạn đời có các bộ sao khác nhau nên không thể khuyên việc bạn có nên theo đuổi một người có mệnh Không Kiếp hay không. Nếu phối ngẫu có mệnh là sao Thiên Không và ta cũng dễ gặp thêm sao Địa Kiếp ở quanh tam hợp hay xung chiếu. Không Kiếp có tính bất thường không hợp cho nữ nhân vì cần thiết ổn định nội tướng, mệnh có Không Kiếp nữ mệnh thường hay có tính cách bộc trực nên tùy theo mẫu người muốn chọn mà ưa cách thất thường bộc phát của Không Kiếp hay không. Bộ Không Kiếp cũng dễ bị phá cách và tai họa của phu thê từ đây mà ra. Trường hợp để dụng được bộ sao này cần chính tinh và bàng tinh mạnh nên thường với nữ có tính như đàn ông, hoặc có một tính cách khác thường. Tuy nhiên đây cũng là sự đặc biệt của duyên số khi chỉ sinh tháng Hợi luôn gặp, chứ thực chất mệnh có bộ Không Kiếp khi sinh các tháng Chẵn đều có khả năng gặp phải và phúc hay họa còn phải do bố cục toàn bộ gia giảm, như việc Phúc Phối Di tốt đẹp thì cuộc sống hôn nhân có vẻ hợp, hay đại hạn hợp cách. Cũng có trường hợp người nữ không may lấy phải bản thân ta là bất hạnh mà Không Kiếp tạo ra tại mệnh. Là tính cách ích kỷ, tư lợi, thất thường hay là người bị chèn ép, ức hiếp cũng là Không Kiếp.

Wednesday, June 14, 2017

Một số câu phú Tham Lang cư cung an Thân



Một số câu phú Tham Lang cư cung an Thân


Sao Tham Lang là một trong các chính tinh có tính cát hóa lớn, khi độc tọa ít bị ảnh hưởng bởi Lục Sát Tinh mà có khuynh hướng dụng được các sát tinh này. Tham Lang là ngôi sao chứa đựng sự ham muốn, tham vọng, từ nhỏ tới to lòng tham muốn luôn tồn tại từng suy nghĩ của mỗi người, khiến sự phât triển của con người ngày càng lớn hơn. Do có sự tham muốn được sống nên sao này không ngại gặp các sao trong Lục Sát, tuy nhiên khi xấu ta có thể luận do tham muốn mà gặp phải tai họa. Như việc xấu như một kẻ tham tiền mà ra tay với người khác, một số tham muốn khiến ta phải chịu tai họa rất lớn. Sao Tham Lang an tại cung Mệnh có thể khiến mệnh tạo thành tựu lớn nhưng cũng có thể mang tai họa bất ngờ. Khi cư tại cung an Thân sao Tham Lang mang ý nghĩa này từ tư tưởng, suy nghĩ, đường lối biến thành hành động và ảnh hưởng trưc tiếp tới thân thể, cũng như ham muốn những thứ như giá trị, nhu cầu vật chất của thân thể. Thường sao Tham Lang cư tại cung an Thân không được đánh giá cao như việc cư tại cung mệnh trong đa phần các trường hợp vì ý nghĩa tính chất cơ bản của sao này. Tham Lang cư tại cung an Thân có thể phân biệt làm hai trường hợp là độc tọa và giao hội với nhóm Tử Vũ Liêm. Khi giao hội với nhóm Tử Vũ Liêm tính chất của sao này trở nên phức tạp hơn việc độc tọa tại các cung Dần Thân Tí Ngọ Thìn Tuất.
"THAM VŨ THỦ THÂN, VÔ CÁT MỆNH PHẢN BẤT VI LƯƠNG"
Tham Lang đơn thủ là cách tham muốn, ham muốn khi đi cùng Vũ Khúc tức nhóm sao Sát Phá Tham đi cùng Tử Vũ Liêm cư tại cung an Thân được luận là cách cục mang khuyết điểm lớn, thực chất chủ yếu là do sao Vũ Khúc tạo ra tai họa cho cách cục này. Tham Vũ ở đây nhiều khi nhầm lẫn giữa cách cục Tham Vũ đồng cung tại Sửu Mùi luận chung với cách Tham Vũ cư Thìn Tuất bằng bộ Vũ Tham. Ở đây cách cục câu phú muốn nhắc đến là cách cục Tham Vũ đồng cung Sửu Mùi. Tham Lang đi với Vũ Khúc trong bối cảnh rối ren của tổ hợp hai nhóm sao khiến Vũ Khúc tăng tính Sát. Sao Vũ Khúc thuộc tính Kim chủ cương nghị, là ngôi sao bạo lực cho nhóm Sát Phá Tham. Vũ Tham cách cư cung an Thân tăng nặng do ham muốn từ bản thân mà mang lại chữ Sát của Vũ Khúc phối hợp, mắc phải sai lầm khi hành động.



Mặt khác tam hợp cung xung chiếu là cách cục Tử Phá khiến Vũ Khúc tăng tính cô kim. Trong trường hợp Vũ Tham cư Mệnh ta luận là hay vì tư tưởng, suy nghĩ mang nặng tính cương, tham vọng trở nên mãnh liệt khiến thành tựu đạt được trong khó khăn. Nhìn chung trường hợp Tham Lang đi cùng sao Vũ Khúc tại cung an Thân nếu không có Cát Tinh giảm tính Sát và ham muốn của cách cục này sẽ mang lại tai họa cho cung này.
"THÂN Ư PHÚC CƯ MẠC KIẾN THAM XƯƠNG TƯỚNG HỎA KHÔI HÌNH LẠI LÂM ĐÀ SÁT KIẾP KHÔNG YẾM THẾ ƯU THỜI, KỴ TỬ KHÔN TOÀN, HẠNH GIA LONG, PHƯỢNG, KHOA, QUYỀN CHUNG THÂN BẤT ĐẮC CHI BÌNH, MẠC VÔ KHIẾM BẬT KHẢ AN NINH".
Cung an Thân cư tại cung Phúc Đức tức giờ sinh ở hai giờ Sửu Mùi, mạc kiến không may gặp phải bộ Tham Xương Tướng Hỏa Khôi Hình lại gia thêm Đà Sát Không Kiếp là người yếm thế không gặp đúng thời không được yên ổn lúc chết. Nếu gặp được Long Phượng Khoa Quyền cuộc đời dễ gặp cảnh bất đắc chí, không có Hữu Bật không thể an nhàn. Ở đây sao Tham Lang phùng Xương Tướng Hỏa Khôi Hình là cách cục xấu. Tham Lang ưa gặp được Hỏa Tinh nhưng ở đây là cách Tham Xương gặp Hỏa Khôi Hình tức do lòng tham muốn nặng nề và quyết tâm làm bằng được tham vọng để ra nhưng tham vọng này gây ra tai họa khi thuộc cách Khôi Hình có Hỏa Tinh đốt cháy. Tham vọng này liên quan tới hành vi do ở cung an Thân, thuộc tham vọng liên quan tới nhu cầu bản thân mà quá mức độ. Tuy nhiên cách cục trên cư tại cung an Thân đồng cư Phúc Đức chưa gây họa và thực sự tác họa khi gặp bộ Đà Sát Kiếp Không tức Không Kiếp cặp Đào Hoa Kiếp Sát gia Đà Hao. Ở đây hình thành cách Sát Phá Hỏa Hao thêm Xương Đà Khôi Hình bị cuốn vào, ở thế bị kéo vào những ham muốn bản thân và sự cố gắng thực hiện mà gây ra tai họa, cuộc đời cũng bất ổn, thăng trầm. Thực chất nếu gặp cách cục này cư cung an Thân khó có thể sống thọ, cũng không tồn tại Tướng và Đà cùng tam hợp, Xương và Không Kiếp cùng tam hợp, ở đây tức khi gặp bộ sao trên ở hạn. Trường hợp thứ hai cũng với cách cục đầu tiên không gặp bộ Không Kiếp Đà Sát mà có Long Phượng Khoa Quyền ở Thân hoặc Hạn là cách bất đắc chí tuy nhiên được an ổn không gặp phải nhiều tai họa, gặp Hữu Bật hóa Sát thành Quyền có thể được một số thành tựu. Cung an Thân có sao Tham Lang cần luận đoán rõ ràng câc tổ hợp sao hỉ kỵ. Cách Tham Xương tuy hay nhưng cặp Khôi Hỏa đặc biệt thêm Thiên Hình thành phá cách nặng nề chủ do lòng tham cho bản thân mà làm việc gây ra tác họa lớn. Kế đến Tham Lang thuộc cách Sát Phá Tham có thể một phần chế hóa bộ Không Kiếp tuy nhiên rất kỵ cư tại cung Phúc Đức hay cung an Thân.

Monday, June 12, 2017

Tính chất biến đổi của bộ Phủ Tướng



Tính chất biến đổi của bộ Phủ Tướng


Thiên Phủ và Thiên Tướng nhiều khi bị nhầm lẫn một số tính chất quan trọng khiến việc luận đoán trở nên khó khăn hơn và dễ mắc sai lầm khi phối hợp các cách cục giao hội với Phủ Tướng. Sao Thiên Phủ và Thiên Tướng trong các câu phú thường luận ở dưới dạng Quyền Tinh với Thiên Phủ là đế tinh sau Tử Vi, thực chất cách viết của các câu phú đa phần khi Tử Vũ Liêm giao hội với Phủ Tướng, đặc biệt đề cao quá việc tính chất tốt đẹp của cách Phủ Tướng. Thiên Phủ và Thiên Tướng thủ mệnh phân ra hai trường hợp đơn thủ và giao hội với Tử  Vũ Liêm. Trong trường hợp bộ Phủ Tướng đơn thủ tính chất bình thường không có gì nổi trội. Tính chất cơ bản của bộ Phủ Tướng là sự giúp đỡ, hiền lương.
"Phủ Tướng Đồng Lương tính tất hảo, Sát Kiếp Không Tham tính bất thường".
Bộ Phủ Tướng thủ mệnh tính tình tốt đẹp hay tương trợ, giúp đỡ người khác. Ý nghĩa sự hiền lương tương tự như cách cục Đồng Lương, nếu thành công do nhờ sự giúp đỡ đắc lực của người khác, tức giỏi về việc xây dựng mối quan hệ tình cảm xã hội. Phủ Tướng thường hay được luận là cách ổn định vì không hóa khí, cũng do không hóa nên khi đơn thủ dễ là cách cục bình thường, không nổi trội nhưng được hưởng sự an ổn mà không bị tai họa nếu không phá cách nặng nề. Bộ Phủ Tướng đơn thủ có thể dụng được Không Kiếp, đặc biệt là vị trí của Thiên Tướng. Sao Thiên Phủ kỵ gặp Thiên Không ( Một số nơi gọi là Địa Không ), nếu chỉ gặp Địa Kiếp không xấu, gia cát tinh luận tốt đẹp. Thiên Tướng gặp cả hai sao Thiên Không và Địa Kiếp vẫn có thể dụng được hình thành cách hoạch phát. Phủ Tướng trong trường hợp đơn thủ gặp Tả Hữu là hỉ, thành cách. Tả Phụ và Hữu Bật cần thiết nhất cho Phủ Tướng hàm ý việc bộ sao này luôn được sự trợ giúp đắc lực từ người khác về hành động và lời nói. Phủ Tướng trong trường hợp này tính chất cơ bản hóa thành đắc lực, Thiên Phủ cũng trở nên được ủng hộ và Thiên Tướng trở nên chính nghĩa.
"Tả Phủ đồng cung tôn cư vạn thặng".
" Tả Phủ đồng cung nhất hô bách nặc".
" Thiên Tướng phùng Bật phúc lai lâm"
Quan trọng nhất luận mệnh Phủ Tướng đắc cách là bộ Tả Hữu, đặc biệt khi Tả Phụ đi với Thiên Phủ và Hữu Bật đi với Thiên Tướng. Trong trường hợp có cả Tả Hữu Không Kiếp nếu mệnh có Thiên Tướng là thượng cách, chủ giỏi việc dụng được các loại người khác nhau, mang tính xây dựng, bao phủ. Vì vậy Phủ Tướng có Tả Hữu không kỵ Lục Sát, tuy nhiên gặp Kình Đà có thể khiến cách cục biến chuyển theo chiều hướng xấu vì Kình Đà chủ việc khắc xung với người xung quanh, cũng dễ biến Thiên Tướng do thích trợ giúp mà chuyển thành sử dụng bạo lực dẫn tới tai họa cho bản thân.


Bằng chứng nhiều người tốt ưa thích hành hiệp trượng nghĩa tuy nhiên lại vướng vào ẩu đả khi giúp đỡ dẫn tới hiểu nhầm, gây thương tích hoặc xấu hơn là thiệt mạng. Trong trường hợp có Kình Đà không nên có thêm Không Kiếp. Vì vậy nếu gặp Không Kiếp thì còn hai trường hợp là giao hội với Lộc Tướng Ấn hoặc Thanh Phi Phục. Trong trường hợp có Thiên Tướng gặp Không Kiếp với Lộc Tướng Ấn cát hung tương bán, trường hợp này do hình thành bộ Tướng Ấn Không Kiếp hay tuy nhiên cách Lộc Không Kiếp mang ý nghĩa xấu. Cách Thanh Phi Phục gặp Không Kiếp khá hay. Với Thiên Phủ trong hai trường hợp đều mang ý nghĩa xấu. Gặp bộ Thanh Phi Phục đặc biệt khi đồng độ với sao Thanh Long có thể dụng được Không Kiếp, cần tránh thêm Sát Kỵ giao hội vẫn là cách cục hay đặc biệt với sao Thanh Long cư tại cung Thìn. Gặp Kình Đà có Không Kiếp đỡ xấu hơn Thiên Tướng. Lưu ý là Thiên Phủ rất kỵ Không Vong gồm Tuần, Triệt, Thiên Không, nếu có thể giải chỉ có Thanh Long và một phần Hóa Khoa hay Tả Hữu giảm họa. Phủ Tướng trường hợp đơn thủ tương đối dễ luận đoán hơn trường hợp giao hội với Tử Vũ Liêm. Phủ Tướng cần thiết các sao mang tính tăng trợ giúp, gặp Khôi Việt Xương Khúc rất tốt. Phủ Tướng trong bộ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm hoàn chỉnh có ý nghĩa khác với trường hợp đơn thủ, ở đây Phủ Tướng mang tính chất phục vụ cho một tổ chức, một hệ thống rất lớn gồm các lý tưởng của Tử Vi. Vì vậy, Thiên Tướng tại đây là Ấn tinh phục vụ, giúp đỡ cho bộ Tử Vũ Liêm. Phủ Tướng ở đây chứa cả tính bạo lực của Tử Vũ Liêm. Cách cục này dễ thành công hơn Phủ Tướng đơn thủ tuy nhiên biến hóa phức tạp khi giao hội vì do có nhiều Chính Tinh. Tuy nhiên hay nhất vẫn là khi có bộ Tả Hữu hay Thanh Long đồng cung.

Sunday, June 11, 2017

Tuổi nào dễ được Tam Hóa trong tử vi?.



Tuổi nào dễ được Tam Hóa trong tử vi?


Bộ ba sao Khoa Quyền Lộc được an theo Thiên Can tức hàm chứa những tính chất biến hóa của Ngũ Hành thành quý, trong khi đó hung sát tinh là những biến hóa mang tính cường sát của ngũ hành mà thành. Tam Hóa gồm Khoa Quyền Lộc là những hóa khí có tác dụng thay đổi hoàn toàn bố cục của các sao. Ngay lưu của phi tinh hóa khí này tác dụng hiển hiện ngay tức uy lực của bộ Tam Hóa rất lớn ngang ngửa với bộ Lục Sát Tinh. Trong Lục Sát Tinh là hai nửa của biến hóa cực đoan ngũ hành phân thành âm dương nên có 6 sao chia làm 3 cặp, cặp Không Kiếp có sức tác họa lớn nhất vì là cặp Hỏa đới Kim tức hàm chứa tính Sát, cũng chứa tính Không của Không Vong. Ở bộ Tam Hóa sao Hóa Khoa có tính giải họa, tức dụng được các cách cục xấu lớn nhất, mang tính điều chỉnh, sửa chữa. Mệnh có bộ Tam Hóa thường không ngại Tứ Sát trừ bộ Không Kiếp có thể tốt hoặc xấu tuy nhiên với Kình Đà Hỏa Linh gặp Tam Hóa tăng sức sát phạt, thành tựu cho cách cục. Bộ Kình Đà ưa được Hóa Quyền, bộ Hỏa Linh ưa được Hóa Lộc. Hóa Khoa có tác dụng tốt với cả tứ sát Kình Đà Hỏa Linh. Mệnh dù chính tinh hãm địa tức cách cục tổ hợp chính tinh xấu gặp được Tam Hóa cũng là cách nổi danh. Mệnh có Tam Hóa cũng phân thành cách cục thượng cách, trung cách và hạ cách tức do các bàng tinh tác  động tới bộ sao này. Bộ Tam Hóa luôn có ở tuổi Giáp tức Liêm Phá Vũ Dương khi bộ Tử Vũ Liêm giao hội với Sát Phá Tham, khi mệnh ở 6 cung Tị Dậu Sửu Hợi Mão Mùi gặp các sao Tử Vũ Liêm Sát Phá Tham luôn được đầy đủ bộ Tam Hóa. Đây là hình ảnh một người luôn gặp khó khăn để tiến bộ hơn, cách cục này có tính hoạch phát rất lớn, đặc biệt khi mệnh ở hai sao Tử Vi và Phá Quân. Bộ Tam Hóa ở đây tức tuổi Giáp có thể gặp Khôi Việt do bộ sao này ở cung Mùi Sửu, không thể gặp Tuế Hổ Phù và Tang Hư Khách, Phượng Khốc vì là Thiên Can dương. Mệnh tạo có Tam Hóa giao hội với nhóm Đào Hồng Hỉ Cô Quả Kiếp Sát.


Với tuổi Giáp có Lộc Tồn cư Dần vì vậy ở mệnh tạo chỉ có thể gặp bộ Kình Hao hoặc Đà Hao hợp cách. Đặc biệt nếu có Kình Đại tăng giá trị cho cách cục cũng như lý tưởng của bản thân. Ngược lại gặp Đà Hao có khả năng kiên trì theo đuổi mục tiêu, cũng không ngại với Hỏa Tinh. Kình Dương kỵ với Hỏa Tinh và Đà La kỵ với Linh Tinh. Với tuổi Giáp có cách Kình Dương cư Mão thường được luận phi yểu chiết hình thương tuy nhiên đi với Tam Hóa mang ý nghĩa khá tốt, giỏi việc tranh đoạt công danh sự nghiệp, có Hóa Khoa khiến mâu thuẫn giảm. Nhìn chung với bố cục tuổi Giáp không có Khôi Việt là hai cát tinh mạnh nên cần thiết có Khôi Việt, đặc biệt là Kình Khôi Đại Khoa khiến mệnh tạo với lý tưởng cao viễn và khả năng thành tựu lớn. Đặc biệt ở đây cần tránh gặp Hỏa Linh nếu mệnh không có Tham Lang vì bộ Hỏa Linh kỵ gặp Kình Đà Khôi Việt hình thành các cách xấu, chủ sự quá mức dẫn tới tai họa bộc phát. Cần thiết được Xương Khúc Tả Hữu Thai Tọa Quang Quý . Với tuổi Đinh khi đầy đủ bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương tức ở các cung Dần Ngọ Tuất Thân Tí Thìn có các sao này. Tam Hóa của tuổi Đinh an theo thứ tự Nguyệt Đồng Cơ. Ở các cung này do Thiên Can âm nên gặp bộ Đào Hồng Hỉ Cô Quả trái với tuổi Giáp không hay thì tuổi Đinh rất cần thiết. Ở đây luôn giao hội với Lộc Tướng Ấn hoặc Thanh Phi Phục cũng hợp với nhóm sao này, trừ ở tại vị trí Phi Liêm và Bệnh Phù không mấy hay tuy nhiên xét bố cục vẫn là cách cục tốt đẹp. Ở tại các vị trí này kỵ gặp Hỏa Linh Không Kiếp. Do Khôi Việt ở cung Dậu Hợi nên chỉ có cách giáp bộ sao này ở cung Tuất. Cách cục này cần gặp thêm Xương Khúc Tả Hữu tăng tính may mắn của bộ sao hiền lành Cơ Nguyệt Đồng Lương. Nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương không ưa mạo hiểm, thích sự an toàn và hưởng phúc khi đầy đủ bộ sao này, vì vậy khi được  Tam Hóa tính cát hóa không lớn như việc hung sát tinh được cát hóa phát dã như lôi, cuộc đời ít sóng gió mà thường được thụ hưởng tập ấm, được may mắn trong gây dựng sự nghiệp. Ngoài ra tuổi Tân với tuổi Bính cũng có thể được Tam Hóa nếu được bộ Xương Khúc, do được hai trợ tinh đắc lực nên cách cục hai tuổi này rất tốt, tránh được bộ Không Kiếp nên đa phần là mệnh quý.

Nữ mệnh lá số Vũ Sát cư Mão luận tổng quan ( Phần cuối )



Lá số nữ mệnh Vũ Sát cư Mão ( Phần cuối)


Vũ Sát có tâm lý phản kháng khá lớn do yêu cầu của sự nghiêm chỉnh, do tính Sát của sao Thất Sát nên đôi khi gây tai họa. Vũ Sát có Đào Hoa nữ mệnh không được sắc đẹp thì được chữ duyên, ngoại hình tương đối, da trắng, mắt rõ màu nâu, mặt khá xương không bầu bĩnh. Nếu được phép người viết có thể xem ngoại hình để biết được tác động vào chính tinh nào lớn hơn. Nếu mệnh sinh năm ngũ hành nạp âm Thổ hoặc Kim thì nhan sắc là điểm mạnh. Một lá số người viết có luận nữ mệnh sinh năm Canh Ngọ có mệnh Vũ Sát có Đào Bật Xương, do có thêm Văn Xương thuộc bộ Xương Khúc chủ sắc đẹp nên quả thực rất xinh đẹp. Trở về vấn đề, đương số trong cuộc sống luôn hiện giữa tính tích cực và tiêu cực ở mọi vấn đề đan xen khiến tâm lý bất ổn cũng là một lý do để cách cục này không mấy hay. có phần cao ngạo và ưa độc hành độc lập thích tự làm lấy mọi việc. Mệnh thuộc chữ nhanh trong công việc, trong yêu đương là cách nhanh yêu nhưng cũng nhanh ghét. Mệnh tạo sở hữu một điểm mạnh là có sự thông minh, nhìn nhiều khía cạnh của vấn đề và theo chiều hướng hài hước. Vũ Sát có Thanh Long là cách hay sử dụng kiến thức của bản thân để dạy chỉ cho người khác. Cái cần làm của Vũ Sát là giảm đi cái tôi và sự nghiêm nghị trong bản tính. Cần nên nhớ rõ Thất Sát đặc tính là Sát, ưa tìm khám phá ra cũng là ngôi sao này. Vũ Sát thủ mệnh là thay đổi cách, đặc biệt trong vấn đề công việc do có bộ Tử Phá, bộ sao này có Hỏa Tinh tức Phá Quân được lệnh. Cách cục này cư Quan Lộc có ý nghĩa thường xuyên thay đổi công việc vì Tử Phá xung đột, Phá Quân liên hệ với Cự Môn nên bản chất của việc thay đổi là sự bất đồng giữa quan điểm, sự bất mãn trong những công việc ở giai đoạn sau. Tất nhiên công việc sẽ làm tốt ở giai đoạn đầu thuộc cách trước hay sau dở, tất cả điều này cũng do bản tính của Vũ Sát.


Thực chất mệnh đương số vẫn còn tốt hơn so với lá số trên vì có Khoa Lộc, có thể vẫn còn di chứng là huyết áp cao do cách Khôi Hỏa, tính thăng trầm của cuộc đời ít biến động ở mức độ lớn tuy nhiên trong tâm trí lại tương đối bất ổn. Nếu mắc bệnh phần nhiều liên quan tới khí huyết và thần kinh, bản tính khá liều lĩnh đặc biệt trong kinh doanh. Việc tình duyên không tốt xái xấu bắt nguồn lại từ bộ Không Kiếp đồng độ định cư tại cung Phúc Đức, với khả năng cao xảy ra là việc Thiên Di bị xấu theo do Địa Kiếp cư Phúc Đức thì hữu tai, khả năng hay bị tai nạn xe cộ. Cả hai lá số trên người viết đưa ra đều có tình duyên éo le, trắc trở. Thực ra lá số có Vũ Sát đã lấy chồng muộn, mà Vũ Sát gặp Hữu Bật càng muộn hơn và quan trọng là có Không Kiếp tại Phúc. Bộ Không Kiếp cư Phúc Đức ở tại vị trí nhập miếu không có nghĩa mang ý nghĩa tốt vì thực tế đây là Không Kiếp Lộc Tồn đồng cung là cách xấu, có thêm Phá Hồng Linh xấu thêm. Đại hạn đi qua cung Phu Thê có Thiên Tướng đáng ra lập gia đình tại đây nhưng là Tướng gặp Tam Không Lộc Kiếp Hồng. Hồng Loan là sự may mắn vè tình duyên nay phải phủ nhận với chữ Không, tuy nhiên do  hạn là Thiên Tướng nên bộ Kiếp Tồn không tác họa, nếu không mang ý nghĩa là việc phải trừ bỏ một bộ phận trên cơ thể, một tai kiếp xảy ra liên quan đến sống và còn. Hạn sau lại là Cự Môn có Tuần Triệt trong cách Cự Nhật ý nghĩa là người đàn ông rời xa, Cự Môn có Triệt Tuần là sự xa cách, một Đà La gặp Thiên Hình có Cô Quả lại là sự chờ đợi không có kết quả mà chỉ làm khổ lẫn nhau. Trong hạn này cũng khó có thể kết quả, một người đàn ông rời xa và rõ ràng là nữ mệnh luôn phải chú ý tới Phúc Phối Di là hàng đầu, một chữ Không tồn tại hiện ra chính là ý nghĩa cách này. Thực chất là việc luận tổng quan Mệnh không luận đến đây mà chỉ xoay quanh tính cách nội tâm và thể hiện ra bên ngoài với tác động của đương số, tuy nhiên người viết luận sâu thêm về tính cảm liên quan tới hạn. Ở đây ta còn cung an Thân cư tạo Mệnh không hay và rõ ràng là tại sao ta không luận yểu tử, tất nhiên là do cung hạn dịch chuyển khá tốt, có Triệt Tuần chắn tai họa mặc dù đại hạn 22 tới 31 dễ vẫn phải chịu nhiều khổ ách, nếu vòng ngược lại tức Âm dương thuận lý như các sách luận độ số tăng thì ta có thể luận đương số dễ dừng lại cuộc sống cũng tại hạn cung Phúc Đức và 22 tới 31. Đây là một Vũ Sát rất hợp với nam mệnh nhưng với nữ mệnh cũng hữu tình khi các hung sát tinh không tụ tập tại hạn, vì vậy được gọi là được bổ cứu. Nếu trong trường hợp luận theo cả đại hạn người viết sẽ đưa rõ việc diễn biến tính cách tố thời điểm hiện tại và cách thức thay đổi lấy từ những tính cách của từng đại hạn trước.


Thực chất việc mất nhiều công sức là luận tính cách diễn biến và hướng đi phù hợp khi vận chuyển theo đại hạn. Một lá số một nghèo một giàu, một yểu một thọ. Người viết có nghiệm lý khá nhiều lá số sinh đôi, trong đó cuộc đời khác nhau đa phần còn cách nhận thức thay đổi do gắn với môi trường từ hạn cơ hội. Một hạn rất xấu gọi là tử nạn với một người sẽ là kẻ kia lao đao nguy hiểm không kém, tuy nhiên cái diệu của Tử Vi là thuận thiên để tránh họa, biết được lá số của mình đã là một món quà rất lớn để ít ra tránh được họa sát thân. Vì vậy người viết thường luận phần đại hạn hao tổn tâm sức hơn luận tổng quan mệnh. Nhìn chung nữ mệnh Vũ Sát này những phần quan trọng đã luận đoán ở trên với những quan điểm rõ ràng dựa trên lá số tử vi. Mệnh khó đạt được sự nghiệp thành công nếu không có thay đổi vì cách cục này chưa đủ lực cát hóa, công việc thay đổi đi lại nhiều nơi nhưng sẽ không đi tới đâu, hơn nữa là nữ mệnh, việc tình cảm gia đình cũng không thành công cần thiết giảm cái tôi và chữ Sát của Vũ Sát để cuộc đời yên ổn. Đến cái tuổi gọi là trung niên một may mắn lại lóe lên với cuộc đời như một vận may khó gặp và ai cũng có một cơ hội lớn của cuộc đời để thành công và giàu và tuy nó tới ở lúc không mấy sớm nhưng Liêm Tham có Hỏa Lộc là bạo phát cách, lực rất mạnh khi có thêm Khôi Khoa Đào Sát. Hạn sau có Thái Âm tốt thứ nhì sau hạn Liêm Tham, thiên về hưởng thụ may mắn trong khi hạn Liêm Tham thiên về nỗ lực làm giàu vì một lý tưởng của Tử Phá. Hạn Liêm Tham nếu không muốn có một mối tình cũng sẽ phải có. Người viết đưa ra nhận định hai đại hạn tiếp theo để đương số chuẩn bị nội lực thay đổi tính cách để nhập hạn có thể tạo ra thành công lớn, cuộc sống có thêm một trang mới.

Lục Sát Tinh tam hợp thủ mệnh



Lục Sát Tinh tam hợp thủ mệnh


Lục sát tinh Kình Đà Không Kiếp Hỏa Linh là các sao thuộc nhóm Lục Sát Tinh tức khi tác họa gây ra cách cục sát thân, nhẹ thì thương tích nặng thì vong mạng. Các tai họa thuộc tai nạn gây ra vết thương hay bị tác động ảnh hưởng tới thân thể thuộc nhóm sao này. Các sao Kình Đà ở trong một bộ Kình Hao và Đà Hao. Bộ sao Không Kiếp cùng bộ và Hỏa Linh một bộ có cùng tính chất. Mệnh có Lục Sát Tinh lưu ý khác việc tam hợp chiếu có các sao này tọa thủ tại hai cung Tài Bạch và Quan Lộc. Nhóm Lục Sát Tinh chỉ tác họa khi được kích hoạt bởi các bàng tinh hoặc các chính tinh biến đổi gây tai họa cho bản thân. Nếu bị tác động gây ra ý nghĩa tốt thường biểu hiện là sự cương quyết, kiên trì, cố gắng, nắm bắt đúng thời cơ để đạt được thành công. Nhìn chung chữ Sát Tinh tức là tính chất mạnh, nặng, khó khăn trong khi các Cát Tinh mang ý nghĩa dễ dàng, thụ hưởng. Điều này khiến cho Mệnh tạo mang nhiều Sát Tinh bị ảnh hưởng lớn bởi sự khó khăn, tai họa. Các sao Sát Tinh cũng mang lại ý chí sống trong nhiều trường hợp khó khăn, như việc kiên cường bám trụ không bỏ cuộc trong bệnh tật hay gặp tai họa. Vì vậy nhiều khi ngoài thực tế người được gọi là hiền lành, tốt tính gặp phải bệnh tật không thể qua khỏi trong khi nhiều kẻ được gọi là sống không tốt đẹp lại sống lâu.


Điều này phải quan trọng ở những yếu tố như kiên quyết từ bỏ thứ có hại, cảnh giác với những nguy hiểm,... mà mệnh có Sát Tinh tọa thủ được trang bị đầy đủ triệt để trong khi mệnh tập trung Cát Tinh không được như vậy. Đa phần những người sống thọ có những nguyên tắc riêng trong cuộc sống, có thể gò bó khuôn khổ và đôi khi nóng tính nhưng đây là biểu hiện tốt hơn cho việc tuổi thọ lâu dài hơn việc một người có lối sống chấp nhận, dễ dãi và hòa động, thụ động. Nhìn chung việc cái tên Sát Tinh và hình ảnh tạo tác tai họa của các sao này dễ ám ảnh theo chiều hướng xấu khiến việc luận đoán trở nên khó khăn hơn và theo chiều hướng tiêu cực khi có các cách cục này. Nếu Sát Tinh không được cát hóa hoặc trở nên hợp cách tất nhiên tính tác họa sẽ rất lớn đặc biệt bộ Kình Kỵ Hình dễ tạo ra những việc làm mang tính vi phạm pháp luật. Mệnh có Kình Đà được luận là trường hợp dễ thành cách cục tốt nhất trong Lục Sát Tinh. Nhóm Kình Đà Hao thực chất an theo Thiên Can là một trong bốn nhóm gây ra tính cách ban đầu của Mệnh tạo. Với Kình Dương là chủ động, tiến công. Với Đà La là bị động, phòng thủ. Những Sát Tinh khác giao hội khiến định nghĩa thêm cho hai sao này và ngược lại Kình Đà định nghĩa người lại các Sát Tinh này. Bộ Kình Đà trong các câu phú có phần luận bi quan ứng với cách cục xấu hoàn toàn của hai sao này. Thực chất mệnh có Kình Đà dễ thành công hơn việc cung Mệnh có bộ Hỏa Linh hay Không Kiếp tọa thủ. Kình Đà khi tác họa gây ra sự chèn ép gây ta thương tích hoặc bị chèn ép. Ở đây còn gì bị tai họa do việc chủ ý hay bị tác động.


Kình Đà kỵ gặp thêm Hỏa Tinh hình thành cách Kình Hỏa hay Đà Hỏa đều không hay, kế đến là Hóa Kỵ tạo ra mâu thuẫn. Mệnh có hai trường hợp gặp cả bộ Kình Đà tức Kình Đà Tiểu hoặc Kình Đà Đại. Trường hợp nội Kình ngoại Đà tức bên trong tính cách ảnh hưởng mạnh của Kình Dương, khi ra ngoài xã hội mang yếu tố phòng thủ, bị động của Đà La. Trường hợp còn lại nội Đà ngoại Kình ngược lại. Khi có cả bộ Kình Đà được luận hay hơn chỉ tam hợp có một sao. Một phần vì không ở vị trí của Song Hao và Kình Đà thủ mệnh khiến mệnh tạo dễ gặp rắc rối với bộ sao này. Ba vị trí nhìn thấy Kình Dương là tọa thủ mệnh, ở vị trí của Hao, vị trí xung chiếu với Đà La. Tương tự với Đà La. Vì vậy mỗi vị trí mang ý nghĩa khác nhau của bộ Kình Đà. Khi gặp cả bộ Kình Đà ngộ Sát Tinh thường tai họa đến lớn hơn trường hợp chỉ có một sao. Trường hợp gặp Kình Đà Hỏa Linh gồm Tứ Sát tức đủ bộ Hỏa Linh ở trong tam hợp mệnh hoặc tại bản cung không luận là xấu nếu không phá cách tuy nhiên cách cục này khó đắc cách. Bộ Kình Đà Hỏa Linh gồm cách Kình Hỏa và Đà Linh xung đột ngay trong cách cục. Với Hỏa Kình chủ dương, chủ động, bộc phát, nằm trong bố cục xấu Khôi Hỏa Kình. Với Đà Linh nằm trong bố cục Linh Xương Đà Vũ là hai biểu hiện xấu khi bị phá cách. Tuy nhiên trong trường hợp tốt đẹp cách cục này khá toàn diện và không gặp nguy hiểm như khi đủ bộ Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp nên cách cục đủ Tứ Sát có thêm Khoa Quyền Lộc hay Tả Hữu, Lộc Ấn dễ thành công. Đặc biệt cách này cần tránh gặp Khôi Việt, Hình Kỵ, Không Kiếp có thể tạo thành tựu lớn tùy phối hợp giữa Chính Tinh và Tứ Sát và trợ tinh phụ tá.


Trường hợp chỉ có ba sao tức Kình Đà Hỏa hoặc Kình Đà Linh giảm tai họa và dễ thành công hơn. Khi có Tứ Sát giao hội thêm với Không Kiếp hình thành bộ Lục Sát Tinh tại mệnh đây là cách cục hiếm gặp sinh ra các tổ hợp đặc biệt khi tam hợp Mệnh Tài Quan đủ Lục Sát và ba tam hợp còn lại không bị xâm phạm bởi bất kỳ một trong sáu sao trên. Nếu Mệnh được cát hóa dụng được Sát Tinh và đặc biệt không hình thành cách Xương Khúc Thương Sứ là mệnh quý hiển. Bộ Lục Sát khi phối hợp tạo ra đủ hai mặt Âm Dương trong một cách cục là Kình Hỏa Không và Đà Linh Kiếp. Hai cách cục này mâu thuẫn rất lớn do thêm cặp Không Kiếp là cặp sao mạnh tác họa nặng nề. Với cách cục này đa phần đều khó có thể dung chứa nổi, cách này điều kiện tiên quyết thành cách phải tránh việc tập trung ở cung Mệnh, do Kình Đà không thể ở tại cung Mệnh nên đặc biệt tránh bộ Không Kiếp án ngữ. Thích hợp cho cách cục này là các Chính Tinh ưa Không Kiếp không có tính Sát, bàng tinh dụng Không Kiếp. Các Chính Tinh đều kỵ một trong lục sát tinh, với Thiên Tướng tuy kỵ Kình Đà nhưng ở trường hợp này hay nhất vì tường hợp với Không Kiếp, đặc biệt khi có Tả Hữu. Bàng Tinh cần thiết có Tả Hữu trợ giúp đắc lực. Không Vong có Tuần Triệt có sức mạnh đáng kể để chế hóa lục sát. Kế đến cung an Thân tránh ở tam hợp Mệnh tức cư tại Phúc Phối Di. Mệnh cung nên thuộc trường hợp Vô Chính Diệu. Nhìn chung với mệnh có Lục Sát Tinh luôn gặp những việc tai họa quyết định trong đời và người thành tựu được đều trải qua khó khăn lớn.

Friday, June 9, 2017

Tang Môn và Hóa Kỵ



Tang Môn và Hóa Kỵ


Tang Môn là sao thuộc nhóm Tang Hư Khách hay còn gọi là Tang Mã Khách. Tang Môn là một trong các Ám Tinh, nhiều sách gọi là Sầu Tinh vì tính chất tang tóc của ngôi sao này. Tang Môn có tính Ám lớn, cần hiểu rõ tính chất này việc luận đoán mới có thể chính xác. Do là Bại Tinh nên nhiều khi luận lá số người luận chỉ chú trọng tới các sao quan trọng Sát Tinh mà không luận rõ ràng tính chất của các sao này. Tang Môn là ngôi sao an theo Địa Chi, luôn đối xung với sao Bạch Hổ an theo vòng Thái Tuế với Địa Chi năm nào thì an sao Thái Tuế tại cung ấy. Tang Môn là sao thuộc tài tinh, thực chất tính chất của sao này về mặt tài sản khá lớn, khi xấu bộc phát tai họa tang tóc tuy nhiên khi hợp cách tính chất tài thể hiện rất rõ rệt. Tang Môn thuộc hành Mộc, tính cương nghị, quả cảm đối phó giỏi với nghịch cảnh. Tuy nhiên tính cương nghị của Tang Môn là do trải qua kinh nghiệm từ quá khứ và đau buồn khác với tính cương quyết của sao Bạch Hổ thuộc hành Kim là sự tuân theo một tư tưởng, thái độ. Bạch Hổ và Tang Môn xung chiếu khi mệnh có một trong hai sao tức luận theo cả bộ Tang Hổ, tính chất ở vị trí Tang Môn hoàn toàn khác với vị trí của Bạch Hổ. Tang Môn là ngôi sao của sự che đậy, trường hợp tốt đẹp là việc che đậy việc kiếm tiền, che đậy của cải vật chất của bản thân, khi xấu là che giấu tội ác, che giấu những thứ bị cấm kỵ, từ đó Tang Môn trong một số trường hợp có liên quan tới cả tù tội khi tính Ám tác động.


 Mệnh có Tang Môn luôn có Thiên Mã nên hoạt ngôn nếu không bị phá cách nặng nề tính chất này thể hiện rất rõ ràng. Bộ Tang Hư Khách có tính chất sử dụng ngôn ngữ không thật để phục vụ một mục đích riêng. Trái ngược với Tuế Hổ Phù thường dễ thành thật trong việc sử dụng giao tiếp hơn. Tang Môn ở tam hợp mệnh hay thủ mệnh đều rất quan trọng trong việc luận đoán chiều hướng của cách cục. Với Tang Môn cần xét việc các tài tinh hay cách cục của Mệnh theo chiều hướng hiển lộ hay ưa ẩn giấu. Nếu mệnh có Chính Tinh và Bàng Tinh phối hợp thuộc cách công khai, chính diện thì Tang Môn dễ gặp nhiều khó khăn nhưng kinh nghiệm rất lớn và dễ thành công trong một thời gian thất bại, càng được ngưỡng mộ khi có Phượng Các. Nếu Tang Môn khi cách cục của mệnh có tính ẩn tác động mạnh khiến tính Ám của Tang Môn thể hiện rõ trong bố cục. Thường nói đơn giản là Tang Môn hóa Kỵ hay hóa Ám. Tính Ám của Hóa Kỵ rất lớn nặng nhất trong các sao, khi đi với Tang Môn khiến tính Ám của sao này tăng mạnh. Cách cục Tang Kỵ ít được chú ý thực chất là cách cục rất nguy hiểm khi phá cách, chủ tai họa tù tội, xấu hơn là mất mạng. Tang Môn đi với Hóa Kỵ là hai ám tinh đi với nhau, đặc biệt trong trường hợp đồng cung tính chất càng rõ rệt. Tang Kỵ là che đậy, che giấu, bao che, thông đồng, khi hợp cách là cả một tổ chức thực hiện công việc bí mật có tính quan trọng nhằm phục vụ một mục đích. Cũng là cách che giấu những việc không nên nói ra như việc che giấu sự việc tránh dư luận hoang mang. Che giấu tạm thời những mặt trái để khích lệ tinh thần, che giấu những bí mật có thể gây tai họa như bí mật về vũ khí. Đây cũng dễ là cách nói dối, dùng lời nói sai sự thật để che giấu. Tang Kỵ khi xấu là tai họa ập đến vì nói sai sự thật, tai họa vì che giấu những sai phạm. Tang Kỵ còn dễ là cách mắc phải bệnh tật nan y lúc phát hiện đã muộn. Tính Ám khiến khuôn mặt luôn hiện nét u uất, buồn phiền. Hóa Kỵ gia tăng khuyết điểm của Tang Môn khiến Tang Môn biến thành kẻ thường xuyên gặp những việc phiền muộn như tang tóc, bệnh tật.