Trời Đất có họa phúc, con người có thời vận. Tử vi đông a trọng khí hình ứng hợp với trợ cách. Nắm được thời vận nghiệp rồng còn khả, huống tới phú quý thường tình.

Trong tử vi có bốn nhóm sao lớn gồm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật. Phân hạng người ngoài xã hội không ngoài bốn thứ vậy.

Một lá số tử vi hàng vạn người cùng giờ sinh vậy. Cũng như gieo hạt giống, phát triển biến hóa vô cùng tùy hoàn cảnh bên ngoài ứng hợp. Sinh trụ dị diệt cùng sở đích nhưng tùy khác biệt ở mức độ. Vòng khởi nguyên của mệnh số là vòng chuyển dịch, do biến đổi liên tục nên không có số phận.

Sunday, April 30, 2017

Lá số Thiên Lương tuổi Nhâm Tuất


Lá số Thiên Lương tuổi Nhâm Tuất


Mệnh Thủy cư tại cung Ngọ có nhóm sao Cơ Nguyệt Đồng Lương hoàn chỉnh. Sao Thiên Lương cư Ngọ thủ mệnh, tam hợp có bộ Cơ Âm tại cung Dần, Thiên Đồng cư tại cung Tuất. Mệnh sinh tháng Hợi nên gặp Thiên Không (Địa Không) tọa thủ tại cung Mệnh. Thiên Khôi tại Tị và Thiên Việt tại Mão. Xét bố cục của 12 cung độ, tổ hợp cung trọng điểm nằm ở cung Tị Dậu Sửu. Cung độ Hợi Mão Mùi có cách Sát Phá Tham giao hội với Tử Vũ Liêm rối ren thêm bàng tinh không hợp cách có tai họa khi vận trình tới đây. Mệnh thuộc ngũ hành Thủy tọa thủ tại Ngọ cung với Thiên Lương cư Ngon thuộc Mộc chủ hiện, tính chất của Thiên Lương trở thành công khai bộc lộ, tam hợp cung luôn có Thái Âm. Cách Thiên Lương cư Ngọ tại đây không cùng ngũ hành với bản mệnh nên tính cách ảnh hưởng của hai sao Thiên Đồng và Thái Âm tại tam hợp tức do hoàn cảnh tác động, tính cách ngầm ẩn chỉ biểu hiện khi hoàn cảnh đến. Bản chất thể hiện nhiều ở sao Thiên Lương. Vì vậy ở đây cách xét chung gồm cả nhóm sao Cơ Nguyệt Đồng Lương tác động mạnh tới tính cách hơn việc xét riêng sao Thiên Lương. Bố cục mệnh có sao Thiên Lương ý nghĩa cơ bản là sự nhân từ, ưa làm việc nhân đứa cho người khác, thường cho người khác những vật của bản thân. Thiên Lương là ngôi sao chủ sự hiền lương, khi xấu trở thành sự bất lương, làm việc tàn bạo mất nhân tính là trường hợp xấu nhất của cách này tuy nhiên không phải trong mọi trường hợp sao Thiên Lương ngộ Sát Tinh đều luận như vậy. Đôi khi gặp các trợ tinh và cát tinh bất hợp khiến cách cục mang ý nghĩa tính chất xấu. Sao Thiên Lương ở đây sinh tại tháng Hợi gặp Thiên Không đồng cung tại mệnh thay đổi hoàn toàn ý nghĩa của sao này.


Thiên Lương từ thiện sống không để bụng nay gặp Thiên Không tại Ngọ ta luận theo chiều hướng xấu vì Thiên Lương kỵ gặp Không Kiếp. Trong trường hợp này ta chỉ gặp sao Thiên Không khác hoàn toàn với trường hợp gặp cả bộ Không Kiếp. Ở đây không luận là Thiên Lương trở thành cách bất lương hay trở thành cách cục không may mắn, tai họa cách mà cần xem xét càng bàng tinh gia hội tại đây. Nếu có thêm Lộc Tồn ta có thể luận là tai họa, chữ Thọ Ấm thêm chữ Không. Nếu có Song Lộc ta luận khác thuộc cách thất thường khi có khi không. Trường hợp này Thiên Lương gặp Thiên Không có Tiểu Đà. Đắc vòng Thái Tuế với vị trí Bạch Hổ tại mệnh có Hỏa Tinh. Ở đây có thêm Thiên Hình thuộc cách cục tai họa cho Thiên Lương và cả toàn cách Cơ Nguyệt Đồng Lương. Lương ngộ Không Hình Hỏa Lộc tại bản cung mang ý nghĩa sự thất thường, không yên ổn hưởng thụ của cách Cơ Nguyệt Đồng Lương. Thiên Lương  ở cách này nóng nảy và Thiên Không khiến tâm tính, tâm lí bất thường. Mệnh tạo tính tình nông nổi, làm việc hay chóng chán và đặc biệt tâm luôn ở trạng thái động. May mắn là ở đây gặp cách Đà Hỏa Hình Không nên không xuất hiện việc bộc phát sự nóng giận gây nên tai họa mà có tính nhẫn nhinh lớn. Các bàng tinh gia hội khiến tính chất của cách Thiên Lương cư Ngọ hoàn toàn biến đổi và theo chiều hướng xấu, tuy nhiên mệnh tạo mất đi sự may mắn và hạnh phúc nhưng phần công danh tài lộc khá hợp cách. Thiên Lương trong trường hợp này là nạn nhân của sự bất thường do Thiên Không gây ra và lưu ý không phải trong mọi trường hợp Sát Tinh đều biến chữ thiện thành ác. Có khi Không Kiếp tai họa do bản thân hiền lương nhưng gặp tai kiếp, có Không Kiếp bản thân tính thiện nên bị kẻ ác làm hại, có Không Kiếp bắt tay với việc làm tàn ác. Nhìn chung do Không Kiếp là sự biến động tâm lí thất thường nên dễ gắn ý nghĩa xấu. Nếu Xương Khúc mệnh ác chiếm đoạt như việc người có học làm trong ngành y, một bác sĩ Trung Quốc sử dụng kim tiêm không an toàn dẫn tới ít nhất 5 người tử vong dễ được thông cảm hơn so với một tài xế không may đâm phải một người sau đó bỏ trốn. Ví dụ này chủ yếu chỉ mang ý nghĩa lý giải cho việc Xương Khúc có thể ác và Không Kiếp có thể tốt. Tuy nhiên khi Xương Khúc ác ta dễ thông cảm hơn việc Không Kiếp tốt. Như việc một kẻ băm trợn nhưng có tâm ý tốt thường bị nghi ngờ. Với Thiên Lương ở đây không phải là mệnh ác tuy nhiên có tính chất bốc đồng dễ gây ra tai họa do Hỏa Hình Hổ gây ra.

Lá số Tử Vi :


Kiến thức sách vở và thành công



Kiến thức sách vở và thành công


Trong Tử Vi có nhiều văn tinh có tính trợ lực lớn như Khôi Việt, Xương Khúc, Khoa. Các sao trên khi thủ mệnh mang ý nghĩa tốt đẹp hơn cho cách cục. Thường nhiều khi có sự phân biệt giữa việc văn hóa nghệ thuật và khả năng lãnh đạo. Như một người văn nghệ sĩ khó có thể có đủ uy nghiêm để điều hành công việc quản lý. Điều này khiến các văn tinh đặc biệt là Xương Khúc khi hình thành các cách cục liên quan tới văn nghệ, nghệ thuật như Âm Dương Xương Khúc thường không được luận việc công danh phát triển theo đường chính trị. Các sao thuộc văn tinh trên thực tế không luận thành các cách cục văn nghệ sĩ mà tùy theo bàng tinh hay chính tinh kết hợp mà mang các ý nghĩa khác nhau. Một cách cục tốt đẹp không có ý nghĩa được địa vị, quyền lực cao mà đôi khi chỉ là cuộc sống sung túc như việc thường dân được hưởng của cải không có địa vị và danh vọng. Vì vậy lại xuất hiện trường hợp không chỉ gia cát tinh ở cách cục mà kiến Sát khiến cách cục mang ý nghĩa hay. Như việc cách Đồng Lương ngộ Xương Khúc Tả Hữu Lộc tại tam hợp mệnh và tránh được Không Kiếp Hỏa Linh được đánh giá là mệnh may mắn, hạnh phúc. Tuy vậy mệnh này không thể đạt được quyền hành trong xã hội mà chủ yếu được sự hưởng thụ về tinh thần và vật chất. Xương Khúc ở đây có thể trở thành văn nghệ sĩ giỏi lĩnh vực liên quan tới nghệ thuật. Nhưng cũng có thể biến thành cách cục giỏi việc dụng người trên sở trường, khả năng chuyên môn lên mức nghệ thuẩn ta thường nghe. Các Văn Tinh không chỉ mạnh ở việc giảm tính Sát và tăng khả năng dụng Sát Tinh cho Chính Tinh còn có ý nghĩa sự hiểu biết do học tập từ người khác hay xã hội và kiến thức có được do sách vở. Chính việc học hỏi này khiến cách cục của văn tinh trở nên rất hay và trái với tai họa do Không Kiếp là đại sát tinh tạo ra luôn lệch pha với bộ sao này.


 Từ xưa tới hiện nay vẫn tri thức, học vấn văn hóa được lưu trữ trong sách vở nhiều nhất và trở nên khổng lồ trên mạng hiện nay. Tất cả mọi mặt từ những điều kiến thức bình thường phòng chống tai họa, những giá trị của phẩm chất tốt như dúng cảm, gan dạ, kiên nhẫn hay những bí mật trong việc tạo ra tài sản, trở nên thành công trong sự nghiệp đều xuất hiện trên sách vở. Các văn tinh có một đặc tính giải họa là những Sát Tinh hay nguy hiểm tai họa biến đổi trở thành các nguy hiểm có thể gặp ở trong sách vở. Như một cách Kình Linh Hỏa chủ nóng giận tranh đoạt trong trường hợp bình thường. Nếu có Xương Khúc Khoa ta thường gặp trong sách vở những thứ liên quan tới việc nóng giận, tranh đoạt. Cũng như khi đọc một tờ báo với nhiều tin tức thì mỗi người có những quan tâm khác nhau, có người quan tâm tới bài viết về kinh tế, giáo dục,... trong khi ta có Kình Linh Hỏa Xương Khúc ta thường quan tâm tới việc xung đột, tranh đoạt của các vụ việc. Nếu có thêm Kỵ Hình ta ưa đọc cách sự việc vi phạm pháp luật trong khi nếu không có Xương Khúc mà chỉ có cách Kình Linh Hỏa Kỵ Hình chính ta là người vi phạm pháp luật do tranh đoạt, xung đột. Văn tinh khiến các cách cục Sát Tinh trở nên tiếp thu liên quan tới chữ viết. Hóa Khoa rất tốt đẹp khi mang ý nghĩa là lời khuyên tức ta thường hay đọc các bài viết liên quan tới giá trị đạo đức về việc tranh đoạt,  xung đột và từ đó tránh được họa. Vì vậy Hóa Khoa được mệnh danh là Đệ nhất giải thần. Hầu hết các sách vở không dạy ta việc xấu trong xã hội để gây tai họa mà thường mang tính mô phạm, khoa học gắn liền với giá trị tiêu chuẩn đạo đức. Vì vậy mệnh có các sao thuộc văn tinh thuộc người có văn hóa, học thức nên tăng giá trị cho bản thân.

Saturday, April 29, 2017

Cung Tí Ngọ và Bàng Tinh (phần 2)



Cung Tí Ngọ và Bàng Tinh (phần 2)


Với bàng tinh tọa thủ sau lục cát tinh là các sát tinh Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp. Với bộ sao Kình Dương và Đà La. Do Lộc Tồn không cư ở cung Tứ Mộ gồm bốn cung Thìn Tuất Sửu Mùi nên sao Đà La không cư tại cung Tí Ngọ Mão Dậu. Cách này khá hay một phần giải thích ý nghĩa cho cách độc Linh Xương Đà Vũ tại cung Thìn Tuất. Với Đà La trong trường hợp có La Võng chỉ có thể cư tại cung Thìn Tuất Dần Thân. Trong trường hợp nhập La Võng hình thành cách cục mang ý nghĩa nặng của Linh Xương Đà Vũ nếu tại vị trí này xuất hiện Linh Dương Vũ. Kình Dương cư tại các cung Tí Ngọ Mão Dậu và Thìn Tuất Sửu Mùi. Với Kình Dương cư tại Tí Ngọ Mão Dậu do ở tại vị trí Đế Vượng của vòng Trường Sinh theo Thiên Can nên đi xuống Suy khác với vị trí Quan Đới sao Kình Dương có tính chất tiến lên, dương lên tự đắc. Sao Kình Dương cư tại Tí Ngọ của tuổi Bính Mậu và Nhâm. Với tuổi Bính, Mậu có sao Kình Dương cư Ngọ và tuổi Nhâm có Kình Dương cư Tí. Do tuổi Bính Mậu Nhâm là tuổi Dương nên Kình Hao cư Tí Ngọ có thể gặp Đào Hồng Kiếp Sát. Khi Kình Dương gặp Kiếp Sát hóa thành khí sát cần tránh thêm các hung sát kỵ tinh tác động thêm khiến cách cục theo chiều hướng xấu. Sao Kình Dương cư Tí Ngọ có khuynh hướng đứng đầu dựa vào sức lực của bản thân để đạt thành tựu. Kình Dương tùy trường hợp đi với Cô Quả hay Đào Hồng mà luận theo ý nghĩa khác nhau. Với Kình Dương gặp Cô Quả có tính chất hành động tác động trực tiếp gây ra kết quả. Cách Kình Cô Quả tăng nặng tính cô khắc của sao này. Trường hợp Kình Dương gặp Đào Hồng có tính chất bộc phát lớn do bản thân gây ra. Kình Đào Hồng có tính chất mưu trí, thường gây ra cách tranh giành, tranh đoạt nếu thêm Sát Tinh.


 Với Kình Dương luôn đi cùng với Song Hao. Trường hợp gặp bộ Kình Đại có tính chất hay hon Kình Tiểu đặc biệt khi bản cung có Kình Dương là tam hợp chỉ một sao Hao. Cách Kình Đà chỉ có Kình Dương toạ thủ tại đây nổi tiếng với cách Đồng Âm cư Ngọ hãm ngộ Kình Phượng thành cách cục hay chủ võ nghiệp phát triển lớn. Cách Hỏa Linh cư Tí Ngọ cũng là cách cục khá hay. Hỏa Linh và Linh Tinh cư tại cung Ngọ được luận ở tại vị trí miếu địa tức tính chất tăng cường ưu điểm của cách cục chủ nhiệt huyết thành công của Hỏa Linh và sự tài giỏi xuất chúng của Linh Tinh. Bộ Hỏa Linh ưa ở vị trí các cung sáng như bộ Nhật Nguyệt và khi cư tại các cung hãm cần xét bố cục chính tinh ở bản cung và toàn bộ tổ hợp. Nếu Hỏa Linh cư Tí Ngọ gặp Tham Lang là cách hay khiến Tham Lang tăng ham muốn về giàu hay về quyền bính khiến cách cục Sát Phá Tham trở nên tốt đẹp hơn. Với Hỏa Tinh cư Ngọ là vị trí sáng của sao này cần tránh gặp Thái Dương hoặc Thiên Cơ và bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương khiến áp lực tăng cao gây ra tai nạn về mặt tinh thần cho cách cục, đặc biệt là khi Cơ Nguyệt Đồng Lương gặp Hỏa Linh. Nếu gặp cần thiết phải có Khoa Quyền để giảm tính tác họa vì sự hiểu biết hoặc Hỏa Tinh được dụng bởi Quyền. Với Linh Tinh cư Ngọ được đánh giá hay hơn Hỏa Tinh vì Linh Tinh là ngôi sao của sự lạnh, cũng mang tính chất Sát của sát tinh. Với Linh Tinh tốt đẹp là người xuất chúng có khả năng tăng tập trung, không để tâm tới bên ngoài. Khi Linh Tinh trở nên tốt cần thiết phải hợp cách với Chính Tinh và Bàng Tinh, thứ đến là độ sáng của sao này. Cách Không Kiếp là đại sát tinh với mức tác họa rất lớn, khi cư Tí Ngọ là vị trí khi tốt của cặp Không Kiếp vì tại đây hai sao này đơn thủ ở cung Tí Tuất hoặc Ngọ Thìn. Với trường hợp gặp một trong hai sao nếu không có thêm Sát Kỵ cũng là cách tác họa của một trong hai sao không Kiếp đơn thủ nên tính chất luận theo tính chất riêng của mỗi sao. Thiên Không nhấn mạnh ở tính bất ngờ, thuộc Không Vong chủ mất và Địa Kiếp ý nghĩa là tai nạn, tai họa mang tính nghiêm trọng. Các ý nghĩa này trở nên rõ ràng khi có Sát Tinh gia hội.

Friday, April 28, 2017

Cung Tí Ngọ và Bàng Tinh



Cung Tí Ngọ và Bàng Tinh


Với cung Tí Ngọ các bàng tinh cư tại đây thường không đủ bộ. Xét với các cát tinh trong lục cát tinh gồm Khôi Việt Tả Hữu Xương Khúc. Bộ sao Khôi Việt ở tuổi Ất Kỷ với tam hợp Thân Tí Thìn và tuổi Tân với tam hợp tại Dần Ngọ Tuất. Ở đây bộ Khôi Việt luôn tam hợp vì vậy khi cư tại Mệnh luận tính chất đầy đủ của bộ sao này. Với bộ sao Xương Khúc mang ý nghĩa văn tinh chủ sự hiểu biết và tìm tòi nghiên cứu kiến thức không thể đủ bộ khi cư tại cung này. Ở đây có thể gặp trường hợp Xương Khúc cư tại Ngọ Thân hoặc Tí Dần. Cách Xương Khúc tại đây cần định nghĩa tính chất riêng biệt của từng sao để tránh nhầm lẫn khi luận đoán. Văn Xương chủ sự thẳng thắn, đơn giản chủ quan trọng cốt lõi, nghe theo những kiến thức học được trong sách vở. Văn Khúc mang ý nghĩa sự nho nhã, tính ưa thích sự cầu kỳ trong cách tiếp cận, mang ý nghĩa gần với nghệ thuật. Hai sao này khi hợp cách đều có những ưu điểm riêng rất hay. Như nâng tầm một việc như khả năng dụng binh lên mức nghệ thuật là Văn Khúc. Nếu ở mức độ tinh tế đơn giản mà hiệu quả là Văn Xương. Nhìn chung Xương Khúc tọa thủ tại bản cung hóa giải tính sát của Sát Tinh để biến đổi thành sự ham học hỏi, hiểu biết văn cách. Tuy nhiên khi cư tại cung Tí Ngọ phối hợp với các bố cục Chính Tinh chưa hoàn chỉnh vì không đầy đủ hai sao tọa thủ bổ sung ý nghĩa cho các cách cục. Với cách Xương Khúc cư Tí Ngọ không luận theo ý nghĩa cả bộ Xương Khúc. Hai sao Tả Hữu cư tại Tí Ngọ cũng ở vị trí cách một cung với trường hợp tại Tí Dần và Ngọ Thân.


Cách Tả Hữu hay gọi đầy đủ là Tả Phụ và Hữu Bật cư tại bản cung trong trường hợp này tính chất khác biệt nhau rõ rệ. Với Tả Phụ thường được luận thiên về lời nói, kiến thức tiếp thu về văn cách. Tả Phụ đi liền với lời khuyên răn, phò tá, trợ giúp bằng những ngôn ngữ khác với Hữu Bật. Sao Hữu Bật khi tọa ở cung Tí Ngọ không gặp Tả Phụ mang ý nghĩa trợ giúp bằng hành động, bằng sự tác động bằng hành vi cụ thể, không như Tả Phụ cung cấp lời khuyên. Hữu Bật vì vậy thường hợp với cách cục võ cách, cũng hợp với sao Thiên Tướng là cách vì sự tương trợ mà ra mặt bằng hành động không phải bằng lời nói nếu Thiên Tướng đồng cung với Hữu Bật. Khi có cả bộ Phụ Bật thì ý nghĩa luận có cả hai tính chất này và biến đổi phối hợp với chính tinh tại bản cung mỗi sao tọa thủ. Trong trường hợp độc tọa tính chất của mỗi sao có tại cung Tí Ngọ rõ ràng hơn và phải đợi đến hạn có sao còn lại mới phát huy đầy đủ tính chất của cả bộ sao. Phụ Bật hay Xương Khúc ở tại đây có cách giáp ở cung Sửu Mùi. Cách giáp này khá hay vì bản cung Giáp đồng thời ở vị trí nhị hợp tính chất mạnh. Cung Nhị hợp thể hiện mối liên quan mang tính tương trợ hoặc thù ghét tới bản mệnh, là nguyên nhân ảnh hưởng tới tính cách của bản thân. Mệnh có bộ Xương Khúc hay Tả Hữu tại cung nhị hợp biểu hiện sự tác động của người thân trong nhà tới tính cách của mệnh tạo, không hoàn toàn mang ý nghĩa hay. Như một trường hợp nếu mệnh an tại Mùi có cách giáp Xương Khúc tại cung Ngọ Dần thì dễ gặp bộ Không Kiếp tai họa tạo cường cung phối hợp thêm với sát tinh khiến cách cục trở nên xấu. Tuy nhiên khi xét về văn học, hiểu biết thì người này được tiếp thu bởi người thân khá nhiều khi thuở nhỏ, dễ thành công hơn với việc không giáp. Với cung Tí Ngọ do các Chính Tinh ở thế độc lập tọa thủ mang tính cách làm chủ bản thân, khả năng khai sáng lớn nên các bàng tinh đóng tại các cung này cũng trở nên quan trọng trong việc thành bại của cách cục, đặc biệt với lục cát tinh và lục sát.

Wednesday, April 26, 2017

Một số ngộ nhận khi luận đoán


Một số ngộ nhận khi luận đoán

Khi tiếp cận một số những vấn đề chưa được trải qua thì thường trong trường hợp khó khăn việc tự đưa ra các suy nghĩ và kết luận khiến dễ gặp sai lầm trong việc luận giải tử vi. Như việc với một cung Thiên Di được định nghĩa là đối phương, đối thủ bên ngoài và đa phần mang cái nhìn xấu nếu cung này tốt hơn cung Mệnh. Qua đó người luận tử vi chỉ chú tâm tới cung quan trọng là Mệnh Tài Quan mà nhầm tưởng các cung khác không quan trọng như ba cung này. Và đặc biệt với cung Thiên Di do nhìn thấy các cặp xung chiếu Thái Tuế và Thiên Hư, Lộc Tồn và Phi Liêm, Tiểu Hao và Đại Hao,... khiến một sao được định nghĩa tốt khi tọa thủ tại cung Mệnh ắt cung Thiên Di gặp sao mang ý nghĩa xấu còn lại và việc cung Mệnh rất tốt đẹp trong khi cung Thiên Di xấu là chuyện đương nhiên. Thực chất cách luận này đa phần do cho rằng việc sao Thái Tuế có bộ Tuế Hổ Phù là tốt và Tang Hư Khách bộ sao buồn rầu, bại tinh là xấu. Tương tự với sao Lộc Tồn trong bộ Lộc Tướng Ấn mang ý nghĩa tốt và sao Phi Liêm trong bộ Thanh Phi Phục mang ý nghĩa xấu khiến việc suy luận cung Thiên Di là đối thủ cung mệnh vì đa phần cung này tốt thì cung còn lại mang ý nghĩa xấu. Cũng như việc giải thích chỉ cần tam hợp ba cung Mệnh Tài Quan tốt đẹp được cát tinh thủ chiếu thì các cung còn lại đa phàn gặp Sát Tinh nên nếu Mệnh Tài Quan tốt là mệnh tốt đẹp, đến các hạn tiếp theo xấu do gặp phải nhiều Sát Tinh vì các sao tốt tập trung vào Mệnh Tài Quan nhưng vẫn hay vì khi trung niên lúc sự nghiệp phát đạt nhập vào hai cung Tài Quan nên luận là mệnh tốt với lý lẽ tưởng chừng như hợp lí như vậy. Thực chất nếu mệnh thiên lệch cát tinh và trợ tinh vào các cường cung Mệnh Tài Quan được luận tốt khi Sát Tinh không tập trung tại một tổ hợp cung còn lại. Như trường hợp nếu đại hạn thứ hai sang cung Phụ Mẫu hay Bào gặp Kỵ Hình Không Kiếp thêm Chính Tinh không hợp như Âm Dương thì yểu mạng ngay tại hạn này lấy đâu ra số tốt hay thượng cách.


Với trường hợp Mệnh số thiên lệch về cung Mệnh Tài Quan rất tốt đẹp cần thiết tránh trường hợp cách cục quá xấu vào cùng một hạn nếu không khó tránh họa nguy hiểm tới tính mạng thì lấy khó khăn vượt qua tới hạn trung niên Tài Quan phát  nếu đường đi không hợp cách bất dụng được Sát Tinh. Trong trường hợp cách cục khá tốt dụng được Sát tinh lại luận là mệnh đại cát. Cung Thiên Di không nên quá xấu vì đây là tam hợp Phúc Phối Di. Cần bỏ quan niệm việc cung Thiên Di trong tất cả các trường hợp là đối phương, bên ngoài mà cần xét tới các sao tọa thủ tại bản cung này. Như việc với Thất Sát ngộ Kỵ Hình Lưỡng Kiếp tại đây dù mệnh tốt cũng khó tránh việc bị giết khi ra ngoài đường dù Mệnh Thân tại có cách cục tốt đẹp. Cũng như vậy nhưng với Thiên Lương ngộ Sinh Khoa Phụ Bật nếu mệnh xấu cũng khó có thể gặp tai nạn vì thường không bị tiếp xúc với những nguy hiểm bên ngoài mà ngược lại được một sự vô hình che chở, may mắn. Nhiều thứ ta ngộ nhận  một cách tin tưởng chắc chắn rằng nó đúng mà không nghi ngờ thì có những thứ ta nghi ngờ gần như hoàn toàn cho rằng đó là suy nghĩ sai thì thưc tế lại chứng minh ngược lại. Càng sống lâu thì cũng nhận ra rằng con người thực cũng có nhân quả mà hầu hết ngay cả người viết trước đây cũng không tin với mấy bài ca cẩm về nhân duyên sinh mà ngày lễ vào chùa nghe sư giảng đạo lý như bộ Cô Quả và Vòng Trường Sinh trong Tử Vi. Vòng Trường Sinh bắt nguồn từ vị trí Thai và kết thúc tại Mộ sau đó theo vòng tròn lại tới Thai. Vòng sao này rất đặc biệt trong nhiều môn toán mệnh. Với bộ Cô Quả không nghi ngại nếu mệnh có bộ Cô Quả đặc biệt ngộ Sát Phá Tham hành động của ta gặp ngay kết quả không cần chờ đợi. Vì vậy bộ Cô Quả hợp với Cơ Nguyệt Đồng Lương hiền lành không tạo ra việc ác lãnh lấy hậu quả xấu.

Cung Tí Ngọ với bố cục Chính Tinh


Cung Tí Ngọ với bố cục Chính Tinh


Cung vị Tí Ngọ thuộc tam hợp Dần Ngọ Tuất và Thân Tí Thìn thuộc trường hợp bốn nhóm sao Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, Sát Phá Tham, Cự Nhật và Cơ Nguyệt Đồng Lương đều hoàn chỉnh cách cục ý nghĩa đầy đủ. Ở cung Dần Thân cung độ có hai sao đồng cung đa phần là cách cục mang ý nghĩa hay. Tại cung vị Tí Ngọ các sao độc tọa thường ở vị trí hay. Các cách Tử Vi, Phá Quân, Thất Sát, Thiên Cơ, Thiên Lương, Cự Môn đứng một mình ở cung Tí Ngọ mang ý nghĩa tốt đẹp và thuộc các cách cục thượng cách, đặc biệt khi cư tại cung Ngọ. Đứng đầu trong tất cả các cách của Tử Vi là cách Tử Vi cư Ngọ. Các cách Thất Sát, Phá Quân, Cự Môn, Thiên Cơ, Thiên Lương luận thứ hai. Với trường hợp đồng cung ta có cách Vũ Phủ, Đồng Âm, Liêm Tướng. Nhìn chung các cách này cũng mang ý nghĩa hay khi cư tại đây. Ở tam hợp Dần Ngọ Tuất và Thân Tí Thìn có nhiều cách cục vị trí của chính tinh ở nơi đắc ý vì các nhóm sao và vị trí sắp xếp đúng, ở bốn cung Tí Ngọ Dần Thân tập trung các cách cục thượng cách của Chính Tinh, hai cung Thìn Tuất do nhập La Võng nên thích hợp với các Chính Tinh ưa biến hóa hoặc dụng được La Võng như cách Liêm Phủ và Vũ Tham. Ở cung Tí Ngọ hay các cung độ khác luôn có tính chất riêng tác động tới tính chất của Chính Tinh khiến các sao này biến đổi theo cung độ nhập, tuy nhiên tính chất này tuy hiển hiện nhưng chưa quan trọng như việc tính chất của từng sao khi phối hợp trong cách cục hay việc ý nghĩa của toàn bộ bố cục trừ một số trường hợp đặc biệt có phần quan trọng hơn. Như việc Thái Dương cư Ngọ và cư Tí đều đầy đủ tính chất của bộ Cự Nhật. Tuy nhiên với cách Thái Dương cư Ngọ được luận hay bao nhiêu thì cách Thái Dương cư Tí được luận là cách cục xui xẻo. Ngay các cung vị đã ảnh hưởng lớn tới tính chất của các bàng tinh như việc Kình Dương cư tại bốn cung Thìn Tuất Sửu Mùi được luận là hay thì bốn cung Tí Ngọ Mão Dậu trở nên xấu. Các Chính Tinh chịu tác động của tính chất từng cung vị lớn hơn các bàng tinh vì vậy nếu luận sâu hơn về ý nghĩa cách cục cần xét cả trường hợp tọa thủ tại cung nào.


Như việc Cự Môn cư Hợi được luận là hay tuy nhiên cư Tị khó mà thành cách tốt đẹp. Nhiều người nghiên cứu Tử Vi lấy việc rối ren này mà phát triển ra các lý thuyết về Chính Tinh hay Bàng Tinh hỗn độn khiến việc xem tử vi ngày càng khó khăn hơn so với lúc ban đầu. Tốt nhất khi xem tử vi cần tối giản nhất những thứ phức tạp, không cần thiết phải tìm hiểu các lý thuyết cao siêu và các cách cục phản vi kỳ cách khó hiểu mà chỉ cần nắm vững tính chất cách cục lớn và cách cục nhỏ. Phân biệt được cách nào tác động mạnh tới bản mệnh và gây kết quả quyết định. Ở cung vị Tí Ngọ các chính tinh khi độc tọa thủ mệnh có tính chất đặc trưng của sao không bị biến đổi và luận tính cách của bản thân theo các sao này, kết hợp với các chính tinh tại tam hợp phù hợp với ngũ hành mệnh trong trường hợp bản cung mệnh có chính tinh khắc với ngũ hành mệnh. Ba sao Cự Môn, Phá Quân và Tử Vi cư tại cung Tí Ngọ đều độc tọa và mang ý nghĩa đứng đầu, chỉ huy trong xã hội mức độ to lớn tùy thuộc vào việc tụ tập các bàng tinh. Vị trí này hay nhất cho Tử Vi và Phá Quân, với Cự Môn vẫn mang khuyết điểm lớn nếu Thái Dương lạc hãm chủ khó khăn, trường hợp này cần thiết dụng được Sát Tinh hoặc các sao tăng giá trị trợ lực. Ở cung Tí Ngọ có cách Tham Lang là chính tinh mang ý nghĩa xấu khi cư tại đây ứng với toàn bộ tổ hợp Sát Phá Tham lạc hãm yếu thế so với Tử Vi độc tọa. Nhìn chung ở cung Tí Ngọ các Chính Tinh cư tại đây trừ trường hợp Tham Lang và bộ Âm Dương ở mỗi vị trí hãm còn các Chính Tinh khác đa phần đắc ý tại đây. Kế đến là việc của bàng tinh đưa ra vô số đáp án từ rất tốt, tốt, trung bình tới rất xấu.

Friday, April 21, 2017

Cung Dần Thân và nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương



Cung Dần Thân và nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương


Nhóm sao Cơ Nguyệt Đồng Lương đầy đủ tại vị trí này hình thành các cách Đồng Lương, Cơ Âm cư tại đây. Khi đó cách Cự Nhật và Cơ Nguyệt Đồng Lương đều hoàn chỉnh ý nghĩa và ở tam hợp xung chiếu lẫn nhau. Cự Nhật cách mang ý nghĩa sự khám phá ra điều xấu trong cái tốt lành, mang thị phi cho cách cục yên bình do bất mãn. Mệnh có nhóm sao Cơ Nguyệt Đồng Lương hoàn chỉnh hưởng thụ êm đềm, phúc hạnh luôn có Cự Nhật tức bên ngoài bất mãn. Cách này còn có ý nghĩa bên trong bản thân ta được hưởng sự yên bình hơn tất cả mọi người vì may mắn hay phúc đức vốn có. Cách Cơ Nguyệt Đồng Lương tại đây luôn có tính chất hưởng thụ nên sự phát triển do vượt qua khó khăn, mâu thuẫn cùng khả năng lãnh đạo bằng tài năng hô hào, phản đối của Cự Môn. Sao Cự Môn rất đa tài vì giỏi tìm ra sai lầm gây bất mãn và chủ thị phi nên bố cục này thường gây bất lợi cho cách Cơ Nguyệt Đồng Lương. Khi xét về Phúc Lộc Thọ thì nhóm sao này khi đầy đủ có tính chất hiển hiện. Chính sự ham muốn về quyền lực, tiền bạc, địa vị  hay hạnh phúc và bản tính của mỗi người ưa sự gánh vác trách nhiệm, ưa quản lý, ưa phá cũ xây dựng mới khiến các Chính Tinh đầy đủ với những đặc tính trên hoạt đồng. Với sao Thiên Đồng ưa các việc liên quan tới cộng đồng, thích giúp đỡ người khác. Với Thiên Lương ưa cho người khác của mình, che chở cho người khác. Bộ Đồng Lương cư Dần Thân mang ý nghĩa phối hợp giữa hai tính chất bổ sung cho nhau khiến mệnh tạo đầy đủ chữ Phúc và Ấm. Thực chất ở đây đầy đủ chữ Phúc Lộc Thọ vì bên trong của ta thêm hai sao Thiên Cơ và Thái Âm. Với cách Đồng Lương cho chữ Phúc và Thọ. Mệnh có cách cục này tại đây được luận là tối hỉ tức " Dần Thân tối hỉ Đồng Lương hội". Cách cục Đồng Lương dễ đoán vì nhiều câu phú bàn đến cái hay của cách này. Kế đến là cách cục Cơ Âm cư Dần Thân. Bộ Cơ Âm cư Dần Thân cũng đầy đủ bố cục Cơ Nguyệt Đồng Lương tuy nhiên thua xa cách Đồng Lương do khả năng chế hóa Sát Tinh của Cơ Âm không mạnh bằng Đồng Lương cũng như ý nghĩa của bộ Cơ Âm chỉ là thời cơ âm thầm, cũng mang ý nghĩa hiền lành, âm nhu cách. Thiên Cơ rất ưa gặp Kình Hao hay Đà Hao tuy nhiên bộ Kình Đà rất kỵ Thái Âm. Kế đến bộ Hỏa Linh đều kỵ gặp hai sao này. Bộ Không Kiếp mang lại tai họa cho toàn bộ cách Cơ Nguyệt Đồng Lương. Vì vậy cách này cần tránh Lục Sát Tinh cư tại bản cung Mệnh vì vậy khó có thể đắc cách mặc dù ý nghĩa ban đầu tốt đẹp. Đặc biệt với vị trí Thái Âm cư Thân tuy tốt nhưng không hoàn toàn sáng, khi cư Dần vào vị trí hãm tính chất bộc lộ khuyết điểm. Bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương tại cung độ Dần Thân cũng là trường hợp khá hay nhất là cách Đồng Lương Dần Thân.

Nghiệp chính trị và kinh thương



Nghiệp chính trị và kinh thương


Khi mới sinh ra đa phần con người đều có những tiềm năng để phát triển rất lớn. Thuở ấu nhi chưa biết nhiều vấn đề và định hướng công việc nên phụ mẫu và môi trường lúc nhỏ đóng vai trò khá lớn cho hình thành cá tính sau này. Vai trò chủ yếu của cá tính là việc bản tính sinh ra khi Tứ Trụ gồm Giờ, Ngày, Tháng, Năm thực chất là ngũ hành mà khí của cơ thể hấp thụ bên ngoài mà tạo nên sự thiên về tính cách do cách hành tạo ra. Như việc Tứ Trụ toàn Dương Hỏa và Mộc tức bẩm sinh tính cách nhiệt huyết, nóng nảy. Các tính cách của ta có thể phân vào ngũ hành do cả phối hợp lẫn nhau được. Khi ta chết đi thì Phong đại ngừng, bằng không vẫn không thể gọi là khí tuyệt. Ngày nay sử dụng bằng cách gọi là não ngừng hoạt động cũng đúng vì sự vận chuyển của Thủy cũng do Phong đại tác động mà ra. Phân nhỏ là ngũ hành có hành Mộc chủ sự sống, phân lớn thì có tứ đại là Phong Thủy Hỏa Thổ. Lá số Tử Vi cho biết khuynh hướng của khí ngũ hành khi tác động vào tâm trí biến thành ý nghĩa các cách cục. Sự nghiệp mỗi người hiện do đều muốn khẳng định bản thân và phát triển lên ước muốn gánh vác vai trò quan trọng trong xã hội hoặc ước muốn có được tài sản, tiền bạc là giá trị vật chất. Vì vậy xung quanh cung Mệnh nhất thiết phải có cung Quan Lộc và Tài Bạch là thứ cần thiết nhất. Và một trường hợp đơn giản để luận đoán là khi cung độ Quan Lộc hay Tài Bạch gặp cách cục lớn tác động mạnh tới suy nghĩ, tư tưởng thì sự nghiệp sẽ theo hướng đó. Không kể là cách cục trọng điểm gây ra bởi Sát Tinh hay Cát Tinh. Ba cung này tam hợp vừa có tính độc lập vừa phụ thuộc lẫn nhau vì ba mặt này không thể tách rời khỏi con người bình thường được sinh ta. Khi Mệnh ta có Tham Lang thì cung Quan Lộc luôn là Thất Sát và sao Phá Quân cư tại cung Tài Bạch. Khi tách riêng để luận Tài Quan ta vẫn có nét tổng quan. Khi luận chung tổ hợp Sát Phá Tham nhìn từ cung Mệnh, tính cách do toàn bộ tổ hợp này phối hợp gây ra kết quả, có cả cung nhị hợp và xung chiếu cũng có tác động tới tính cách của Mệnh.


Nếu mệnh tạo do yếu tố hoàn cảnh sống tác động theo hướng chúng trị thì cung Quan Lộc đưa ra cái nhìn riêng biệt và luận đoán mệnh tạo đưa ra cái nhìn tổng quan với sự nghiệp. Vì vậy cung Mệnh là quan trọng và khi luận xác bản cung khác cần phối hợp với tính chất tại cung Mệnh tức cá tính của bản thân ta. Khi nhìn tổng thể cả cuộc đời nhìn vào mười hai cung và vận hạn thêm cả Mệnh Thân khiến quá nhiều thứ cần phải chú ý. Nếu gói gọn chỉ cần nhìn Mệnh, Thân, Hạn cho ta cái nhìn rộng và khái quát hơn. Trong Tử Vi đã phân chia các Chính Tinh và Bàng Tinh với ý nghĩa riêng biệt và cũng có phân chia Cát Tinh và Sát Tinh. Sự nghiệp đi theo Chính Trị khi toàn bộ cách cục đi theo con đường xây dựng và gánh vác trách nhiệm. Không phải chỉ sao Tử Vi mới có ý nghĩa này như người viết thường đưa ra tính chất về sao Tử Vi mà toàn bộ các Chính Tinh khác khi phối hợp cách cục với Bàng Tinh cũng có thể mang ý nghĩa này. Tuy nhiên với tính chất ban đầu của Tử Vi mang ý nghĩa là trách nhiệm xây dựng xã hội nên được gọi là sao đứng đầu khi luận về cách cục Chính Trị, được gọi là Đế Tinh. Cũng như đứng đầu về tài bạch là sao Vũ Khúc là sao chủ lợi ích tài sản. Sự nghiệp kinh thương liên quan nhiều tới việc năng động tìm ra giải pháp, không khô khan, cứng nhắc như cách cục kia mà có sự giải trí, năng động và thay đổi liên tục tìm ra giải pháp chính là đặc tính của Vũ Khúc.

Thursday, April 20, 2017

Bành trướng trong Tử Vi

Bành trướng trong Tử Vi


Chữ bành trướng thường được sử dụng với ý nghĩa lấn chiếm, xâm lấn đất đai của nước khác. Từ bành trướng còn được sử dụng cho nhiều việc khác như sự mở rộng về quy mô kinh doanh lấn át những đối thủ khác để có thị trường phát triển. Hiện nay việc kinh tế được đặt lên hàng đầu và sát tinh phá cách có cơ hội trở thành tranh đoạt, cướp đoạt, bành trướng để kiếm được nhiều lợi nhuận hơn. Thường nghe các doanh nghiệp phá sản trên báo đài hay những chiêu trò kinh doanh triệt hạ đối phương. Thời bình Sát Tinh đắc dụng theo chiều hướng kinh thương và thời chiến Sát Tinh trở về với ý nghĩa thật sự của mình. Việc các câu phú Tử Vi được truyền lại từ thời loạn lạc thường các nước xâm chiếm lẫn nhau không có được phần hòa bình như bây giờ. Ngay như Việt Nam cũng đã phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh mới có được hòa bình nhưng cũng bấp bênh như hiện nay việc lợi ích kinh tế đã dẫn tới nhiều sự xung đột. Luôn tồn tại sự xây dựng và bất mãn để phá vỡ gây chiến tranh. Hòa bình rất có giá trị trong trường hợp đã được trải qua thử việc này. Trong Tử Vi cũng có cách cục mô tả sự bành trướng, các sao chủ bành trướng ra bên ngoài. Kình Dương chủ tiến lên, tấn công và Đà La là mở rộng, phòng vệ. Khi Đà La đi với cách cục Sát Phá Tham hình thành cách cục tấn công và lan rộng ra, đặc biệt nếu gặp thêm cách Thanh Phi Phục và Kỵ Hình có ý nghĩa là sự bành trướng lấn át đối phương và tranh đoạt. Ngoài ra ta còn cách cục Thiên Phủ ngộ Kình Hao hoặc Đà Hao gia Sát Kỵ cũng có tính chất như trên. Việc đẩy mạnh xâm chiếm nơi khác cần sự có mặt của Thiên Phủ hoặc liên qun tới bộ Kình Hao và Đà Hao, đặc biệt là cách Đà Hao.


 Ở mức độ lớn sự xâm lấn, lấn chiếm liên quan tới quốc gia, nhỏ hơn là lấn chiếm lòng đường, hè đường hay sự bành trướng phát triển về một lĩnh vực nào đó cho đến sự xâm lấn của ung thư tới cơ thể của con người. Cách cục ung thư rất nhiều trường hợp do Thiên Phủ xấu gây ra. Sao Đà La cũng đóng góp rất nhiều vào các cách cục này. Khi Thiên Phủ nằm trong bộ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm gặp Sát Tinh như Không Kiếp thêm Kình Hao hay Đà Hao tại mệnh hay hanh thì nên cẩn thận với các cách ung thư vì nhóm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm chính là bên trong bản thân, cơ thể của chính đương số và Không Kiếp gây ra sự rối loạn, tai kiếp và Kình Đà là sự lan rộng ra hay chống lại chính cơ thể. Bành trướng thế lực còn liên quan tới sự đồng minh để tăng thêm sự mở rộng, các thế lực liên minh lại và bành trướng rộng lớn liên quan tới Thiên Đồng. Sao Thiên Đồng và Tham Lang luôn nhị hợp với nhau hình thành sự liên kết ám hợp. Thường nghe việc Mỹ và đồng minh bành trướng thế lực ra bên ngoài. Mệnh có Thiên Đồng hay Tham Lang gặp các sao chủ mở rộng cũng liên quan tới cách cục này. Đặc biệt trong cách bành trướng cần thiết có Hóa Kỵ đặc biệt cách Đà Kỵ. Bộ Tam Ám gồm ba sao Diêu Đà Kỵ gieo rắc sự xui xẻo, tối tăm một cách ầm thầm phát triển cũng có giá trị trong nhiều trường hợp. Lưu ý không luận bộ Diêu Đà Kỵ theo ý nghĩa xấu nếu không có hung sát tinh trùng phùng, nhược được các sao chủ Quyền Lực gồm Quyền, Linh hay các Chính Tinh thuộc võ tinh hóa thành Quyền ấn nếu dụng được cách cục này tính chất tốt đẹp hoạch phát của Sát Tinh trở nên rất mạnh.

Wednesday, April 19, 2017

Cung Dần Thân và nhóm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm



Cung Dần Thân với Tử Phủ Vũ Tướng Liêm


Cung Dần Thân khi có nhóm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm tại đây luôn đầy đủ cả nhóm sao này. Cung Dần Thân là nơi góc nơi các nhóm sao đều đủ bộ nên có giá trị khi nghiệm lí việc một nhóm sao khi hoàn chỉnh có tính chất tốt hơn hay kém hơn việc giao hội lẫn nhau. Tại đây Tử Vũ Liêm giao hội với Phủ Tướng với cách Tử Phủ cư Dần Thân. Cách Tử Phủ cư tại vị trí này là sự phối hợp giữa hai sao có nhiều tính chất hay khi đắc cách. Tuy nhiên khi phối hợp với nhau ý nghĩa không hay như cách Tử Vi độc tọa cư Tí Ngọ. Khi Tử Vi cư tại Tí Ngọ tính chất hiển hiện đặc biệt tại Ngọ là cách Đế cư Đế vị thể hiện sự cô độc vì cao nhất là ưu điểm cũng chính là khuyết điểm của cách cục này. Khi Tử Vi cư Tí Ngọ nhấn mạnh ở lý tưởng xây dựng và khả năng đứng đầu của sao này. Trong trường hợp Tử Phủ cư Dần Thân sao Thiên Phủ có tính chất che đậy, bao phủ và sự cẩn trọng khiến Tử Vi biến đổi theo tính chất này dẫn tới bố cục Tử Phủ Vũ Tướng Liêm và Sát Phá Tham tại đây có tính chất khá tương đương nhau. Cách Vũ Tướng cư tại Dần Thân được đánh giá là tốt khi trong tam hợp có cách Tử Vi đơn thủ tại Tí Ngọ. Thiên Tướng là sao phục vụ cho người đứng đầu. Trong trường hợp này sao Thiên Tướng phục vụ cho lý tưởng của Tử Vi. Cách Vũ Tướng tăng sức cát hóa cho Thiên Tướng do Vũ Khúc là sao chủ có tính cương quyết, đa mưu nhiều giải pháp để giải quyết tình hình. Thiên Tướng gặp Vũ Khúc là cách được ủng hộ bởi sự nhân nghĩa lấy công bằng làm việc, tuy nhiên tại đây vẫn có khuyết điểm khi Vũ Khúc biến đổi tính kiên quyết thành độc đoán, độc tài cách cục Vũ Tướng khi đó biến đổi theo chiều hướng xấu.


Thường cách này trở nên xấu khi sao Tử Vi có tư tưởng bất chính va bản cung gặp các Sát Tinh chủ vi phạm như Kỵ Hình hay Kiếp Kình. Vũ Tướng cư tại Dần tốt đẹp hơn tại cung Thân. Trong Tử Vi các vị trí cung Địa Chi đều mang ý nghĩa riêng và cung Dần thường thiên về cách võ nghiệp, bộ Vũ Tướng tại đây hợp cách, tuy nhiên việc kiểm nghiệm tính chất tại các vị trí khó khăn nên đa phần nhìn các sao an tại đây qua các lá số để xem xét tính chính xác. Vũ Tướng luôn có đối cung là sao Phá Quân đơn thủ. Bộ Sát Phá Tham yếu thế so với cách Tử Phủ Vũ Tướng Liêm. Vũ Tướng tại đây rất cần thiết nắm Quốc Ấn chủ ấn tín tại tuổi Đinh, Kỷ khi cư tại Dần và tuổi Canh khi cư Thân. Với tuổi Đinh gặp Triệt tại bản cung cát hung tương bán, tính chất tốt đẹp vẫn lớn. Cách Liêm Trinh độc tọa tại cung Dần Thân, tam hợp có cách Tử Tướng nhập La Võng và cách Vũ Phư cư Tí Ngọ. Với cách Liêm Trinh tại đây trong bối cảnh xét chung với nhóm Sát Phá Tham và Tử Vũ Liêm được trợ giúp bởi Phủ Tướng lực lượng gần ngang bằng nhau, cách Sát Phá Tham có phần yếu thế hơn. Ở đây khác với cách Tử Phủ đối đầu Thất Sát tại Dần Thân vì cách cục này tuy tương đương nhưng tính chất khá xấu ở cả hai nhóm sao. Liêm Trinh tại đây có tính liêm chính, chính trực hơn bên ngoài là Tham Lang độc tọa tại đối cung có tính tham vọng, ham muốn có thể làm các việc táo bạo, tranh đoạt.

Cung Dần Thân với Sát Phá Tham



Cung Dần Thân với Sát Phá Tham


Thất Sát cư Dần Thân là vị trí hay nhất của sao này hơn cả cách Thất Sát cư Tí Ngọ. Tổ hợp Sát Phá Tham có tính cát hóa mạnh khi cư tại đây. Do bố cục khi Thất Sát cư Dần Thân thì Phá Quân cư tại cung Tí Ngọ và Tham Lang cư Thìn Tuất. Vị trí của cả ba chính tinh trong bố cục Sát Phá Tham đều ở nơi tốt nhất của cách cục. Đặc biệt khi Phá Quân cư Tí Ngọ nhấn mạnh ở ý nghĩa quân tử, trong khi Tử Phủ đồng cung mang ý nghĩa phòng thủ, lý tưởng của Tử Vi tại đây vẫn được đánh giá là hay tuy nhiên Phá Quân rất giỏi tìm kiếm sai sót và đang ở cách cục tấn công nên tình hình hai bên đều mạnh, không phân biệt được bên ta hay bên ngoài là người quyết định mặc dù Tử Vũ Liêm có được Phủ Tướng hoàn chỉnh cách cục vẫn không hơn nhiều trước Sát Phá Tham. Vị trí của Tham Lang trong cách cục này cũng được đánh giá là hay khi Sát Phá là hai hung tinh chứa tính Sát lớn không nên nhập La Võng trong khi Tham Lang chủ mang tính kế hoạch, tạo ra mưu sách cần thiết có La Võng như cách Liêm Phủ Thìn Tuất. Bố cục ở đây là cách Tử Phủ xung chiếu Thất Sát, Liêm Tướng xung chiếu Phá Quân và Vũ Khúc xung chiếu Tham Lang. Với cách cục của hai bên tức bản thân ta và bên ngoài xã hội nếu một bên trở nên phá cách do bàng tinh hội họp khiến cách cục trở nên phân định. Nếu mệnh xét riêng là sao Thất Sát bên trong tốt đẹp hơn Tử Phủ bên ngoài hoặc chung bố cục là cách Sát Phá Tham tốt hơn Tử Phủ Vũ Tướng Liêm thì mọi sự bản thân làm đều có khả năng thắng người khác. Có nhiều cách xung chiếu tùy theo ý nghĩa của Chính Tinh và trong cách cục này khi Sát Phá Tham một bên và Tử Phủ Vũ Tướng Liêm một bên thì tính xung đột bên ngoài là tính chất của cách này.


Trường hợp Thất Sát hay nhất khi tranh đấu được những điều đúng, lẽ phải trong khi Tử Vi phải dấu đi và che đậy. Phá Quân cư Tí Ngọ là những thay đổi, việc phá bỏ những thứ sai lầm để xây dựng thứ tốt đẹp hơn. Tham Lang khi đó là mong muốn được xây dựng, như việc tham muốn được quyền lợi cho người khác khi gặp cảnh bất công do bên ngoài gây ra khiến Phá Quân phải thay đổi lại, phá bỏ bất công bên ngoài khiến Thất Sát tranh đấu. Trong cuộc sống thực tế mệnh có cách Sát Phá Tham thường gặp những sự việc như vậy. Phá Quân cư Dần Thân khi đó Thất Sát cư Thìn Tuất nhập La Võng và Tham Lang cư Tí Ngọ. Cách cục này thuộc Tử Vi độc tọa tại cung Tí Ngọ tính chính nghĩa rất lớn, do đơn thủ nên tính chất được phát huy không phối hợp với Chính Tinh khác. Cung độ Liêm Phủ cư Thìn Tuất nhập La Võng là cách lấy đạo đức để bao che cho Thiên Phủ, đây cũng là cách biết đối nhân xử thế và khả năng phủ dụ rất tốt. Liêm Phủ cũng mang ý nghĩa tương trợ và khi có La Võng tính chất hay thêm. Bộ Vũ Tướng là hai sao chủ võ cách cũng là cách hay. Trường hợp này cách Tử Phủ Vũ Tướng Liêm rất mạnh về tính chất khiến Sát Phá Tham trở nên tôi tăm. Với trường hợp Tham Lang độc tọa tại Dần Thân khi đó Thất Sát tại Tí Ngọ và Phá Quân tại Thìn Tuất. Ở đối cung là cách Tử Tướng cư Thìn Tuất, Vũ Phủ cư Tí Ngọ và Liêm Trinh đơn thủ tại Dần Thân. Cách này Sát Phá Tham và Tử Phủ Vũ Tướng Liêm đều không mạnh và Sát Phá Tham yếu thế hơn một phần. Ở vị trí Tham Lang tại đây bình thường không quá tốt cũng không xấu.

Tuesday, April 18, 2017

Thiên Đồng hóa thành Quyền tuổi Đinh



Thiên Đồng hóa thành Quyền tuổi Đinh


Sao Thiên Đồng thuộc nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương trong trường hợp bố cục hoàn chỉnh. Còn một trường hộ nằm trong cách cục Đồng Cự Cơ. Sao Thiên Đồng hóa thành Quyền tại tuổi Đinh. Với tuổi này ta luôn có đủ bộ Tam Hóa trong trường hợp Thiên Đồng đi với Cơ Nguyệt Lương và có bộ Nhị Hóa gồm Khoa Quyền và có thêm Hóa Kỵ cản trở khi đi cùng Cự Cơ. Với cách cục Thiên Đồng hóa thành Quyền khá may mắn vì luôn được nhiều Hóa khí tụ tập tăng độ số cho cách cục. Thiên Đồng tại đây tính chất biến đổi khi hóa thành Quyền rất lớn và ta có thể gặp cách Thiên Đồng chê hóa sát tinh trong trường hợp kiến Tứ Sát. Cách Cự Cơ Đồng mang tính tốt đẹp hơn vì cách này chỉ sự đứng đầu và có thêm Hóa Kỵ nếu thêm hung sát tinh dễ biến sao Thiên Đồng hiền lành, trợ giúp cộng đồng trở thành cách cục tính tình thâm sâu, tạo được mưu kế, toan tính trong lòng khi thực hiện các mục đích của bản thân. Thiên Đồng luôn có Tham Lang trợ giúp, trong trường hợp này Thiên Đồng tốt hơn Tham Lang và người tham gia trợ giúp do uy tín của Thiên Đồng tạo nên. Ở tuổi Đinh cách cục Thiên Đồng cư Hợi ngộ Thiên Việt có Kình Hao tam hợp mang ý nghĩa khá hay. Kình Việt là cách phát sinh và Thiên Đồng hóa Quyền khiến sự tranh giành, tính Sát của Kình Dương hóa thành quyền cách. Thuộc cách tạo ra phúc lợi cho kẻ khác và được nhận sự kính nể. Thiên Đồng tại đây tuy ở vị trí hãm địa nhưng thuộc cách cục tốt đẹp. Đặc biệt ở đây không chỉ là cách Kình Việt mà hình thành thêm cách Kình Kỵ Hao có Quyền khiến tính chất trở thành quyền ngầm. Tuy theo có các sao như Thiên Hình, Linh Hỏa, mà luận về tính chất biến đổi theo chiều hướng cực đoan của cách cục. Trường hợp Đồng Linh tại đây khá hay vì hình thành cách Linh Kỵ tại bản cung có Kình Quyền là quyền lực mang tính sinh sát hoặc tạo áp lực lên kẻ khác. Ở cung độ Tham Lang ở cung nhị hợp có cách cục Tham Hỏa chủ phú cách đặc biệt hay khi tới hạn này chủ giàu có nhanh do giỏi việc tranh đoạt và sử dụng nhiều sức lực. Ở vị trí cung Dậu có cách Đồng Khôi ngộ Đà Hao hình thành bộ Đồng Quyền Khôi Đà là cách cục không mấy tốt do  tính chất của Thiên Khôi khác Thiên Việt như ở trên, Đà La cũng mang tính thủ, chậm trễ khác với Kình chủ tiến. Thiên Đồng tại cung Ngọ gặp Lộc Tồn không hợp cách vì vị trí của Cự Môn tại cung tam hợp kỵ với Lộc Tồn và cách này thuộc các đồng Âm Tí Ngọ.

Hóa Quyền với tính chất Ẩn và Hiện



Hóa Quyền với tính chất Ẩn và Hiện


Hóa Quyền khi hóa khí từ các chính tinh thể hiện tính ẩn và hiện tùy theo tính chất của chính tinh hóa khí và bàng tinh phối hợp. Trong thực tế ta gặp nhiều trường hợp quyền lực ngầm khi nghe tới danh đã mang theo uy tín và trường hợp quyền lực công khai. Trên lá số Tử Vi các Chính Tinh có tính chất ẩn mang ý nghĩa mạnh hơn các sao chủ hiện. Cũng như nhìn một sự vật thấy bề nổi và bề chìm của việc đó. Thực chất tối và sáng luôn thay đổi lẫn nhau. Cái biết là sáng và cái không biết tức là tối. Việc không nắm rõ thông tin thường mang theo mối nguy hiểm và một trường hợp biết rõ về vấn đề cũng gây ra mối nguy hiểm đã được lường trước chính là tính Ẩn và Hiện. Quyền ngầm là thứ ta chưa biết hết về mức độ bao trùm của quyền lực. Như trường hợp hay gặp trong việc dụng binh từ việc không biết trước mà chỉ nghe danh tiếng của quân địch tạo ra sức mạnh bao trùm khiến một bên có tâm lý sợ hãi. Trong các thể hiện quyền lực ngầm lại phân chia việc Hư Quyền và Thực Quyền. Cách này thường gặp trong trường hợp nhóm sao Tang Hư Khách hay Tuế Hổ Phủ gặp Hóa Quyền. Thường trong quyền lực ngầm cũng chưa bí mật trong cách cục này. Một Hitle là biểu tượng của quyền hiện của chính ông ta và suy rộng ra là chính quyền ngầm của toàn bộ máy Phát Xít Đức. Cách cục hay nhất khi có Quyền là khi Tử Vi hóa thành Quyền.


Cách cục này có ở tuổi Nhâm đặc biệt khi Tử Vi đầy đủ hoàn chỉnh nhóm sao Tử Phủ Vũ Tướng Liêm. Tử Vi là ngôi sao của trách nhiệm gánh vác nhiệm vụ, có tính bảo mật, khi hóa Quyền không gặp phá cách khiến cách cục thay đổi tính chất chủ quyền lực xuất phát từ trách nhiệm và phục vụ cho lý tưởng của Tử Vi. Quyền ngầm xuất phát từ trong nội bộ, khiến Tử Vi tuy không có nhiều tài năng chuyên môn nhưng nhận được trợ giúp ẩn để thực hiện lý tưởng, các việc làm xây dựng xã hội thường không công khai tuy nhiên sức bao trùm rất lớn. Cách này khác với cách Cự Môn hóa Quyền hay Phá Quân hóa Quyền. Với cách Cự Môn hóa Quyền tại tuổi Quý ta có được tín nhiệm, quyền hành do tính chất công khai phản đối điều sai trái do bất mãn của Cự Môn. Ở đây sao Cự Môn có tính chất Quyền hiện. Với Phá Quân do công khai phá bỏ, thay đổi những đường lối sai do Tử Vi mà tạo nên uy quyền. Trường hợp này chỉ xét bố cục của Chính Tinh, nếu các bàng tinh giao hội tính chất có thể thay đổi.

Monday, April 17, 2017

Hóa Quyền với chữ Sát



Hóa Quyền với chữ Sát


Hóa Quyền là hóa khí của một số Chính Tinh như Phá Quân, Thiên Lương, Thiên Cơ, Thái Âm, Tham Lang, Thái Dương, Tử Vi, Cự Môn. Các Chính Tinh khi hóa thành Quyền mang những ý nghĩa khác nhau. Tính chất khi biến thành Quyền tức các Chính Tinh này có được sự tín nhiệm, uy tín từ ý nghĩa ban đầu của sao. Khi Phá Quân hóa thành Quyền mang cả tính Sát của tổ hợp Sát Phá Tham, tại đây tính chất nhờ thay đổi, phá bỏ cái cũ để tiến bộ nên Phá Quân được nể phục mà trở thành tốt. Vì vậy hóa Quyền có ý nghĩa biểu hiện sự thành công của tính chất ban đầu chính tinh, vì vậy nên cần thiết có tại Mệnh. Hóa Quyền có thể dụng được Sát Tinh biến thành quyền sinh sát. Quyền lực này có tính hai mặt có thể gây ra tai họa liên quan tới tính mạng của một hoặc một nhóm người bằng cách quyết định của bản thân. Mặt khác cách này dễ đổ vỡ khi đáo hạn xấu chính ta là kẻ chịu chữ Sát, vì vậy Sát tinh mới khó chống đỡ và dụng được, nếu dụng được Sát thì khả năng bạo phát rất nhanh. Như một chữ Quyền khi người đứng đầu nước Mỹ hay một nhóm người trong tổ chức cao nhất ra quyết định tấn công ở chiến trường của hồi giáo khiến 90 tay súng bị chết. Một chữ Quyền đặc biệt ở thời trước khiến chiến loạn dẫn tới thương vong vô số. Quyền lớn nhất là quyền nắm giữ sinh mạng của rất nhiều người cũng là một tính chất của Phá Quân hoá Quyền. Thời xa xưa hơn là việc công thành tiêu diệt toàn bộ quân địch đối phương.


Mức độ của chiến tranh ngày càng gia tăng do Hỏa của vận Thiên Hạ vào chu trình nhập Trường Sinh do tác động của con người. Chữ Hỏa của Lục Sát Tinh từ vũ khí thô sơ như dao kiếm, cung tên gây sát thương tiến dần theo chu trình hình thành thuốc nổ, tới bom hạt nhân và hiện nay có nhiều loại vũ khí hủy diệt lớn như sinh học, hóa học, nguyên tử. Cần thiết nhìn cả sự phát triển vè chữ Sát của vận Thiên Hạ qua thời gian lâu dài sẽ tuân theo Vòng Trường Sinh có Sinh Trụ Dị Diệt. Quyền Sát ở thời điểm hiện nay đang có mức độ lớn nhất. Quyền Sát mang lại tai họa và là một phần bản tính của con người và cũng thực tế chữ Quyền Sát cũng biến đổi tính chất theo những hoạt động phát sinh mới. Như mệnh có cách Phá Quân ngộ Quyền Khôi Đại Kình Linh Kỵ thuộc cách Quyền Sát trong thời chiến tranh hoạch phát hoặc vong mạng bởi cách này. Tuy nhiên khi thời bình có thể biến thành việc theo đuổi khoa học hay về kinh thương cách và mô tả cho các cách cục này. Vì vậy cách Thái Dương cư Hợi hoá Quyền lập đại công thời loạn và mang bất mãn ở thời bình. Khi Thủy Hỏa giao chiến sinh ra chữ Sát và bản chất của cách này luôn gặp chữ Vong. Mệnh có cách cục Quyền Sát hạn tốt được, hạn xấu mất cũng như sau Thất Sát là chính tinh biểu hiện cho cách này bao gồm chữ Thất đi trước chữ Sát.

Sunday, April 16, 2017

Lá số mệnh Thất Sát đắc cách (phần 3)



Lá số mệnh Thất Sát đắc cách (phần 3)


Vượt qua đại hạn thứ hai với nhiều may mắn và thành tựu lớn do phối hợp giữa mệnh và hạn khá hay. Tuy nhiên phải đổi một phần sức khỏe ứng với cung an Thân không tốt tại cung Thiên Di có bộ Tử Phủ bên ngoài bị Thất Sát bên trong tranh đoạt địa vị. Tới đại hạn tiếp theo may mắn khi được cách Vũ Khúc hóa thành Khoa và cầm Ấn tại bản cung nhưng bố cục không hay vì Tử Phủ tại cung tam hợp gặp Tồn Kiếp Tuế là cách cục mang ý nghĩa hoàn toàn bất lợi với sao Tử Vi. Vừa nhập hạn Vũ Khúc tuy được Hóa Khoa nhưng khi gặp tiểu hạn trùng phùng với cách Tử Phủ Vũ Tướng Liêm xấu bản thân đương số phải mổ xẻ khối u ở vùng bụng phần dạ dày. Đại hạn này cũng có những thành công và thất bại xen lẫn về mặt tài sản, về mặt công danh hoàn toàn không có, gặp phải tai họa cũng nhiều có việc liên quan tới cả tính mạng. Cũng trong hạn này đương số suýt mất mạng vì làm ăn với giang hồ và bị lừa tại đây không lấy lại được tiền. Đương số xin được vào một cơ quan trong nhà nước và dần dần theo đuổi con đường sự nghiệp theo khuynh hướng quan lộc. Ở đây may mắn khi bản cung hạn là Vũ Khúc được bộ Hình Ấn tức đầy đủ là cách Binh Hình Tướng Ấn ngộ Khoa Quyền Lộc nên con đường danh vọng cũng có bước tiến triển nhất định mặc dù liên quan nhiều tới đấu đá cạnh tranh khốc liệt. Cuối hạn đương số leo nhanh hoạch phát như lôi giữ chức vụ lớn trong một cơ quan lớn. Tới đây chữ danh tưởng như vững bền năm cuối hạn bỗng nhiên gặp phải tai nạn giao thông vào năm Mậu Tí khiến không đủ sức khỏe để tiếp tục công việc.


 Thất Sát do thiếu sự quan sát và sao Thiên Mã ngay tại mệnh ở tiểu hạn là cung Thiên Di tạo ra tai họa khiến công danh đổ vỡ, tuy nhiên tính mạng và tài sản thì vẫn còn nên phú cách vẫn được giữ vững. Bước qua đại hạn này mất nhiều hơn được và mệnh tạo có dấu hiệu có phát triển ung thư, bị nhiều bệnh tật trên cơ thể. Sang năm đầu tiên của đại hạn Âm Dương Lương bản cung có Thái Dương cư Hợi hóa Kỵ ngộ Kiếp Sát, tam hợp là Âm Lương ngộ Kình Việt Đào Xương Khúc. Nếu chỉ xét cách cục thì ở đây không mấy xấu do Thái Dương cư Hợi lạc hãm lại gặp Hóa Kỵ thêm bộ Kình Đào Sát mang ý nghĩa phải gặp thương tích do tranh đoạt hoặc bệnh tật phải mổ xẻ. Tuy nhiên bộ Xương Khúc nằm tại cung Mùi vốn tốt đẹp lại sai vị trí khi hình thành cách " Quế sứ hoa thương tối hiềm giao hội, mạc phùng Sát diệu đa khổ tai ương". Ở đây tính Sát do bộ Kình Đào Sát Kỵ tạo ra. Tới đây có dấu hiệu cách cục theo chiều hướng rất xấu. Hạn này đương số bị ung thư ngay khi nhập hạn. May mắn là sao Thiên Lương, ở đây Lương có Việt chủ sự phát khởi sự che chở, may mắn gặp được thầy giỏi và bệnh không còn nguy hiểm tới tính mạng. Cũng hạn này đương số theo tôn giáo hóa giải được một số tính Sát nên không chết, tài sản tiền bạc cũng không mất mà có chiều hướng tăng lên do mở rộng kinh doanh. Thất Sát tại đây có đại hạn khá tốt vận đúng hướng, các cung hạn cũng không hoàn toàn tập trung cách cục xấu. Lo lắng khi nhập cung độ Tử Phủ tác họa rất lớn. Mệnh này chứa đựng các cách nhiều hung hiểm nhưng cũng có cách giảm tai họa đi cùng nên cuộc sống vẫn tiếp tục, không luận là lá số hay vì cung an Thân xấu tuy nhiên cách Thất Sát và bố cục khá tốt đẹp.

Lá số mệnh Thất Sát đắc cách (phần 2)



Lá số mệnh Thất Sát đắc cách (phần 2)


Ở đối cung cư Thiên Di chính là cung an Thân quan trọng hơn cả cung Mệnh là cách Tử Phủ cư Dần gặp Tồn Tuế Kiếp Tuyệt tại bản cung. Cách cục này được đánh giá mang tính hoạch phát hoạch phá rất lớn. Tử Phủ tại đây đích thị là cách Đế ngộ hung đồ và rất may mắn khi Tử Phủ không gặp phải Không Vong nếu không thì gặp phải họa sát thân. Tại ngay bản cung có cách Địa Kiếp ngộ Lộc Tồn và Thái Tuế. Cách cục này có ý nghĩa sự tai kiếp luôn tồn tại và sức tác họa rất lớn thể hiện ngay bên ngoài. Mặc dù cách Tử Phủ Vũ Tướng Liêm được bộ Khoa Quyền Lộc và đặc biệt có cách Song Lộc nên nếu đổ vỡ không tới mức độ vong mạng. Song Lộc ngộ Không Kiếp là cách cục hoạch phát thất thường. Vũ Khúc hóa thành Khoa tìm ra được tai họa của Địa Kiếp khi bên ngoài hoàn cảnh khiến bản thân nhìn ra được tai kiếp. Bản thân dương số đã có lần mổ xẻ do khối u lành may không gặp nguy hiểm tới tính mạng do phát hiện sớm tình cờ. Mệnh Thất Sát tốt đẹp tuy nhiên cung an Thân xấu không được như Mệnh cũng may mắn đại hạn không đi tới chỗ tuyệt mệnh tuy nhiên tai họa liên quan tới cung an Thân vẫn luôn tồn tại khi đương số bị mắc bệnh ung thư ở giai đoạn đầu. Cách cục gặp bộ Tồn Kiếp đặc biệt là cách Tử Phủ Vũ Tướng Liêm ngộ Tồn Kiếp đồng cung có Thái Tuế cư Mệnh hay Thân thường nếu mắc bệnh thì liên quan tới ung thư hay bệnh nan y vì quanh đây ở tam hợp còn ngôi sao Bệnh Phù và Tử Phủ gặp Kiếp Tồn là cách tích lũy tai họa, bệnh tật trong cơ thể.


Tuy nhiên ở đây tới trung niên vẫn bình yên vô sự khiến bệnh như trở thành mãn tính do vận hạn đi theo hướng rất tốt. Qua đại hạn đầu tiên khởi từ cung Mệnh với tính chất luận ở phần trước, đương số nhập hạn Thiên Đồng ngộ Tuần Triệt Khôi Đà Tả Hữu Quang Quý Cô Quả rất thích hợp cho cách Đồng Cự Có. Ở đây cách Kình Dương tuổi Giáp xấu không ảnh hưởng vì Triệt Tuần rất tốt. Đặc biệt cách cục này được vòng Trường Sinh. Cung độ Thiên Cơ tốt đẹp được Tuần Khôi tăng thêm tính quan trọng. Bước sang hạn này được khen ngợi thiếu niên nhưng tài năng lớn. Mệnh Thất Sát bấy giờ đã có hứng thú với việc kinh doanh, buôn bán trao đổi. Thời cơ do Thiên Cơ tạo ra tốt đẹp nên gặt hái được nhiều thành tựu tại hạn này. Cũng trong hạn này dành dụm được số tiền rất lớn thời bấy giờ nhờ biết khai thác những thứ thời điểm lúc đó cần thiết. Thất Sát đi tiên phong nhìn thấy cơ hội của việc đất đai nên dùng tiền mua các vị trí đất gần khu dân cư sau này khi chuẩn bị sang đại hạn thứ ba đã trở thành người giàu có, có vị trí cao trong xã hội tuy nhiên không công khai. Cung an Thân tại hạn này cũng không gặp vấn đề gì xấu mà đa phần được hưởng phúc lớn Đồng Vượng từ sao Thiên Đồng. Qua hạn này tích lũy được kinh nghiệm trong việc buôn bán và cách nhìn ra thời cơ và đặc biệt có tính táo bạo rất lớn. Hạn này cũng một phần lớn lấy sức khỏe đổi lấy thành công.

Cung Dần Thân với bàng tinh tọa thủ



Cung Dần Thân với bàng tinh tọa thủ


Cung Dần Thân thuộc tam hợp Dần Ngọ Tuất và Thân Tí Thìn. Xét phụ tinh quan trọng là Tả Hữu Xương Khúc. Cung độ Dần Thân là nơi phụ tinh tan đàn xẻ nghé khi với Tả Hữu một sao nằm ở cung Tí Ngọ và một sao nằm tại cung Dần Thân. Cách Tả Hữu bộc lộ rõ phân biệt tính chất từng sao khi cư tại cung Dần Thân. Với Tả Phụ thiên trợ giúp về văn cách mà ta thường nghe tới văn phòng của các ban ngành, thực hiện liên quan tới sách vở, giấy tờ, cũng chủ trợ giúp bằng lời nói, lời khuyên hay đề xuất. Cách Hữu Bật tại hai cung này mang ý nghĩa khác liên quan tới sự trợ giúp bằng hành động như việc giúp sức trong việc đánh nhau, tranh giành. Hữu Bật thuộc võ cách có tính cương cường, trái ý nghĩa văn văn cách là sao Tả Phụ. Tả Hữu tọa thủ tại đây được cách Giáp bộ sao này tại cung Sửu Mùi tuy nhiên ở phía mệnh tạo không hay vì thiếu một sao mât đi sự tốt đẹp do ý nghĩa mang lại. Xét với cách Xương Khúc ta cũng có bộ sao này đơn thủ tại cung Dần Thân và sao còn lại ở cung Tí Ngọ. Xương Khúc cũng có tính chất khác biệt nhau về thể hiện rõ ràng khi cư tại vị trí này. Văn Xương tại đây có tính văn hóa tiếp nhận trực tiếp, có thể do lời nói hoặc truyền miệng, cũng chủ tính thẳng thắn. Văn Khúc có tính văn hoá tiếp nhận gián tiếp, cũng chủ tính phù hoa, ưa kiểu cách. Xương Khúc do không phối hợp thành bộ nên mất đi một số tính chất hay của bộ sao này. Tuy nhiên với một số cách cục chỉ cần thiết có một sao lại là cách hay như cách Lưỡng Khúc cư Dần. Nhìn chung cả bốn sao Tả Hữu Xương Khúc cư tại đây mang ý nghĩa không hay do tính chất không đầy đủ, giảm khả năng cát hóa, phù trợ cho cách cục xấu. Xét tới bộ Khôi Việt không an tại cung La Võng nên ở tam hợp Thân Tí hoặc Ngọ Dần đầy đủ tính chất của bộ sao này nên luận là hay.


Các sao an theo Địa Chi gồm Tang Hư Khách hay Tang Mã Khách, Tuế Hổ Phù và Phượng Khốc. Ở tại đây đặc biệt cách Thiên Mã cư tại cung Dần Thân là cách cục rất tốt vì đầy đủ bộ Mã Khốc Khách tức bộ Tang Hư Khách ngộ Phượng Khốc. Mệnh an tại cung độ này đặc biệt khi cả ba sao Mã Khốc Khách đồng cung là cách cục chuyển động, đa tài đa năng giỏi việc thay đổi. Tang Hư Khách cần thiết được Phượng Khốc là cách có nghị lực vượt qua khó khăn trắc trở để thành công. Đặc biệt khi có Lộc Tồn hoặc Hóa Lộc tính chất này càng thể hiện rõ ràng. Ở cung độ Dần Thân luôn gặp La Võng tại cung Thìn Tuất tam hợp mệnh khi có Thái Tuế tại đây kỵ gặp Thiên Phủ hoặc các sao chủ mắc bẫy như Đà Kiếp. Không Kiếp cư Dần Thân được đánh giá quan trọng của vị trí này với các bàng tinh. Không Kiếp xung chiếu lẫn nhau tại đây được đánh giá khá tốt đẹp chủ tính thành bại thất thường. Địa Kiếp thủ Mệnh có tính chất ứng với một khuyết điểm gây tai họa do tính cách xấu như ích kỷ, thâm hiểm hoặc bị tai kiếp tồn tại ở bản thân về bên ngoài thường có sự không ngờ. Phối hợp của bộ Không Kiếp tại đây tốt hơn việc hai sao này tam hợp chiếu lẫn nhau và không hay bằng việc đồng cung. Với Thiên Không tại đây mang ý nghĩa Không khi nhập mệnh, tùy theo cách cục mà biến đổi theo hướng xấu tốt nhưng chung cuộc đều gặp chữ bất ngờ. Với bộ Hỏa Linh nhị hợp đặc biệt khi Hỏa Tinh cư Dần là vị trí tốt đẹp chủ nhiệt huyết, tận tâm với việc làm.

Cung Dần Thân với Chính tinh tọa thủ



Cung Dần Thân với Chính tinh tọa thủ


Cung độ Dần Thân thuộc tam hợp Dần Ngọ Tuất và Thân Tí Thìn. Hai cung Dần Thân là nơi các chính tinh đồng tọa thủ tại bản cung với nhiều cách cục. Với nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương và Cự Nhật cư tại cung này hai nhóm sao đều hoàn chỉnh. Ở nhóm sao đầu tiên có các cách cục Cơ Âm, Đồng Lương tại hai cung này. Cách Đồng Lương là cách cục nổi tiếng trong tử vi với ý nghĩa là phúc ấm. Thiên Lương rất mừng khi có Thiên Đồng, Đồng Lương là cách làm việc tốt cho tập thể, chủ hạnh phúc vì giúp đỡ chung và có hàm ý là cách cục giàu vì ta may mắn hơn người khác. Cách cục Cơ Âm ý nghĩa thiên về ngoại hình chủ xinh đẹp, thanh cao. Mệnh Cơ Âm cư Dần Thân mang ý nghĩa thời cơ luôn tiềm ẩn may mắn. Cơ Âm thiên về nữ tính vì Thiên Cơ có tính chất hiền lành, là Thiện tinh và Thái Âm thuộc âm nhu. Bộ Cơ Âm còn là sự hưởng thụ về cá nhân, có khuynh hướng thiên về văn hóa nghệ thuật. Trong trường hợp ngộ Sát Kỵ lại là người mang tính quyền ngầm không luận như trên, chỉ xét cho bố cục Chính Tinh. Bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương cư tại đây mang ý nghĩa tốt trừ trường hợp Cơ Âm tại cung Dần do Thái Âm lạc hãm tối nên có phần kém hơn. Bộ Cự Nhật cư tại Dần Thân cùng là cách cục hay khi đầy đủ hai sao bổ trợ tính chất cho nhau. Thường được luận là cách "Trì danh thực lộc" và "Quan phong tam đại". Cách này do cung Phúc Đức có Cơ Lương rất tốt kết hợp với cung Mệnh. Cự Nhật cư Dần hay hơn tại vị trí cung Thân. Về cách cục giữa nhóm Cự Nhật và Cơ Nguyệt Đồng Lương đều có ý nghĩa tốt đẹp khi tọa thủ tại hai cung này trừ việc liên quan tới bộ Âm Dương tính chất đa phần do phân thành ngày đêm. Ở cung Dần Thân và Tị Hợi là vị trí của Trường Sinh. Các cung Dần Thân đắc vòng Trường Sinh khiến tính chất của hai nhóm sao này tăng lên về mức độ tốt xấu. Cách Đồng Lương cư Dần Thân rất cần thiết được Trường Sinh khiến phúc vượng là cách cục hay.

Nhóm sao Tử Phủ Vũ Tướng Liêm và Sát Phá Tham tại vị trí này cũng có được sự hoàn chỉnh. Xét về nhóm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm ta có cách cục Tử Phủ, Vũ Tướng, Liêm Trinh độc tọa. Nhiều sách có đề cập tới cách Tử Phủ Vũ Tướng và Tử Phủ Vũ Tướng Liêm đa phần do xét tại cách này như việc Cơ Âm và Đồng Lương tại đây tạo đủ cách Cơ Nguyệt Đồng Lương. Thực chất Tử Phủ Vũ Tướng là cách cục thiếu không hoàn chỉnh về ý nghĩa và mâu thuẫn khi xét về sự hoàn chỉnh tính chất nếu Liêm Trinh sang nhóm Sát Phá Tham thành cách Sát Phá Liêm Tham. Bộ sao Tử Phủ đồng cung tại đây là cách cục hay thứ hai sau cách Tử Vi độc tọa tại cung Tí Ngọ. Ở đây tính chất của Tử Phủ mang tính quản lý, lý tưởng của Tử Vi bị chi phối bởi tính chất cẩn trọng và bao phủ, thiên về lời nói của sao này. Tuy nhiên do không mang tính Sát và ngược lại tăng thêm uy lực cho lý tưởng của Tử Vi hơn cách Tử Vi đồng cung với Thiên Tướng hay Sát Phá Tham. Cách cục Vũ Tướng cư Dần Thân cũng là cách cục hay phục vụ, trợ lực cho lý tưởng của Tử Vi độc tọa Tí Ngọ. Vũ Khúc phối hợp với Thiên Tướng là đa tài đa năng cách, cũng mang ý nghĩa tài lôc rất lớn. Sao Liêm Trinh độc tọa tại đây mang ý nghĩa bình thường do Tử Tướng nhập Thìn Tuất có Vũ Phủ cư Tí Ngọ. Nhóm Sát Phá Tham các chính tinh đều độc tọa tại hai cung này và đặc biệt Sát Phá rất hay khi cư tại đây. Tham Lang cư Dần Thân có Thất Sát cư Tí Ngọ tuy nhiên Phá Quân nhập La Võng khiến bố cục không mấy tốt. Cách Tử Phủ Vũ Tướng Liêm và Sát Phá Tham. Nhìn chung khi đầy đủ hoàn chỉnh cách cục tại vị trí Dần Thân đều tốt, duy cách Liêm Trinh và Tham Lang hai sao đối nghịch về ý nghĩa ở vị trí trung bình.

Thiên Lương tại cung an Thân (phần 2)



Thiên Lương tại cung an Thân (phần 2)


Thiên Lương cư tại cung an Thân với vị trí cung Mệnh tức trường hợp Mệnh Thân đồng cung ở giờ sinh Tí Ngọ cả cuộc đời gắn với sao Thiên Lương, đặc biệt là khi sao này ở vị trí độc tọa. Thiên Lương luôn đi cùng với Thái Âm ngẫu nhiên việc chịu ảnh hưởng của Chính Tinh này tới tính chất toàn bộ tổ hợp rất lớn. Thiên Lương khi cùng tọa thủ tại Mệnh Thân tối kỵ phá cách tai họa tăng hơn nhiều việc cung an Thân cư tại các cung độ khác, nếu trường hợp một bên xấu thì tốt nhất ở hai tam hợp xung chiếu lẫn nhau như Mệnh Tài Quan xung chiếu Phúc Phối Di đỡ xấu hơn. Thiên Lương tại 12 cung khi đồng độ với Thiên Đồng được đánh giá là cách cục hay nhất tối hỉ gặp tại Mệnh Thân hợp cách. Thiên Lương đi cùng vòng Trường Sinh và bị ảnh hưởng lớn do vòng sao này. Thiên Lương thủ Thân cung nhị hợp là sao Liêm Trinh. Cung an Thân có tác động mạnh trong trường hợp an tại Phúc Phối Di khi rời xa quê hương bản xứ để bắt đầu lập nghiệp, cũng là cái nhìn của xã hội bên ngoài tới bản thân. Sao này tốt là sự hiền lương ưa giúp đỡ người khác và đấy đó làm niềm vui hạnh phúc. Nếu Thiên Lương thủ Thân cư tại các cung thuộc tam hợp Mệnh tính chất hiển hiện ngay từ khi xuất hiện các suy tưởng hình thành tính cách. Do Âm Lương không giao hội với sao Cự Môn mà chỉ hình thành duy nhất cách Âm Dương Lương và Cơ Nguyệt Đồng Lương đều là cách yên ổn mang lại cảnh thanh bình không có nhiều rối loạn nên gọi Thiên Lương là ngôi sao may mắn trong các bố cục cũng bởi phần lớn do toàn bộ bố cục của hai cách này. Nhìn chung việc có Thiên Lương tại cung an Thân là một chữ may trong lá số tử vi, chỉ còn xem có thể hiện khuyết điểm của sao này hay có tính chất hoàn toàn tốt đẹp. Thiên Lương tại đây có một số cách cục khác biệt về ý nghĩa cùng các sao kỵ hay hợp cách khác với việc tọa thủ tại cung Mệnh.


Thiên Lương tại đây cần thiết gia tăng tính ổn định của cách cục đủ khá năng chế hóa Hung Sát Tinh xâm phạm tại tam hợp, cung đại hạn và lưu bàng tinh của tiểu hạn. Cần thiết nhất có được Hóa Khoa, khi Lương hóa thành Khoa tại bản cung và nếu có trường hợp phụ tinh gồm Tả Hữu Xương Khúc hóa Khoa là cách cục đại cát gia tăng các tính chất ý nghĩa tốt hơn. Việc Tả Hữu hóa thành Khoa tăng tính trợ giúp hay sự bình ổn của cách cục, có khả năng chống đỡ lớn như trụ trước các đại hạn xấu tác động tới cả cung Mệnh Thân. Trường hợp có Xương Khúc tăng tính hiểu biết, tăng sự liên quan tới sách vở, văn phòng mà giảm tính Sát, đặc biệt tránh được bộ Không Kiếp nên luận là hay. Thiên Lương tự Hóa tại tuổi Kỷ cũng là cách hay giúp Thiên Lương có khả năng tự hóa giải bằng sự giúp đỡ may mắn âm thầm xung quanh mà tránh được tai họa xấu. Thiên Lương gặp bộ Lộc Tướng Ấn tăng tính ổn định, tích lũy và an ổn cho cách cục. Đặc biệt cách Âm Lương ngộ Lộc Tướng Ấn có tính che chở, yêu thương mà không gặp phải tính Sát nên rất tốt, cần thiết tránh các Sát Tinh như Không Kiếp Hỏa Tinh Kỵ Hình tùy theo mức độ phá cách mà luận cát hung. Thiên Lương cư tại cung an Thân khi giao hội với các nhóm sao cần lưu ý tới vị trí đồng cung của các sao trong bộ tới cung an Thân. Các bàng tinh Thai Tọa, Cáo Phụ có tính làm đẹp sao này, đặc biệt cách Thai Tọa rất hợp cư tại cung an Thân tăng tính ổn định. Cáo Phụ tăng ý nghĩa thọ và hưởng thụ ấm cho cách cục.

Thiên Lương tại cung an Thân



Thiên Lương tại cung an Thân


Tính chất cơ bản của sao Thiên Lương phối hợp với tính chất của cung an Thân đưa ra kết quả của cách cục này. Cũng tương tự khi luận tại các cung còn lại như Tài Bạch, Quan Lộc, Thiên Di, Phúc Đức, Phu Thê hay các nhược cung. Thiên Lương đặc tính quan trọng là sự hiền lương, may mắn, ưa giúp đỡ người khác và có tính chất thể hiện ra bên ngoài. Thiên Lương là ngôi sao của sự che chở, được sự bao phủ, thầm lặng của Thái Âm ở vị trí bên ngoài tam hợp nên vẫn được gọi là Ấm Tinh mặc dù có tính chất hiển lộ. Thiên Lương đi tại các cung độ nổi bật ở sự may mắn khi gặp tai họa ở các cách cục xấu. Thiên Lương cư tại cung Mệnh hay đặc biệt là cung Thân tối hỉ hợp cách chủ bản thân khó gặp tình huống tuyệt mạng. Thiên Lương cư tại cung an Thân chia làm hai trường hợp nằm trong bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương hoặc nằm trong bộ Âm Dương Lương. Xét về tính chất ổn định, may mắn do được che chở thoát khỏi tai họa thì cách Cơ Nguyệt Đồng Lương có tính chất rất mạnh về ý nghĩa này. Xét về sự thay đổi hay tinh thần tới cuộc sống tươi đẹp hay tăm tối cách cục Âm Dương Lương biểu hiện rõ nét. Hai cách này nằm tại cung mệnh mang ý nghĩa tốt về mặt tính cách tuy nhiên cư tại cung an Thân có sự khác biệt rõ. Tại cung an Thân nổi bật là những suy nghĩ tiềm thức được bộc lộ ra bên ngoài bằng suy nghĩ tư duy và hành động ra bên ngoài. Vì vậy Mệnh và Thân là hai cặp an nghịch nhau mang tính chất đều quan trọng. Thiên Lương cư tại cung an Thân nổi bật được nét may mắn hơn người về thân thể, hoặc tại thân phận tùy theo các cục phân cao thấp của sao này.


 Tại các vị trí này có tính chất liên quan tới toàn bộ cách cục tam hợp của bản cung. Thiên Lương cư tại cung an Thân cũng chia hai trường hợp khi vòng an Thân và cung Mệnh cùng tổ hợp tức Thân cư Mệnh Tài Quan. Trường hợp thứ hai cung Thân cư phúc Phối Di. Trong trường hợp cư Mệnh Tài Quan tính chất của Thiên Lương đi liền với tính cách của Mệnh tạo. Trong trường hợp thứ hai cư Phúc Phối Di tùy vào các vị trí cho thấy việc Thiên Lương liên quan tới các cung hên ngoài xã hội, thuộc cách ra đường dễ gặp may mắn. Sao Thiên Lương cư tại các cung liên quan như việc cung an Thân cư Phúc Đức. Cách này phối hợp việc tính chất cung an Thân đi liền với cung Phúc Đức và đây là vị trí hợp nhất với Thiên Lương với những may mắn thoát khỏi tai nạn khi hạn xấu tới mức khó hiểu dù vị trí của Thiên tại nơi không đắc ý như Lương tại Tị Hợi Sửu Mùi hay đắc cách trở nên rất tốt đẹp. Qua kinh nghiệm mệnh tạo có cách này nếu tại bản cung được cách cục tốt thì các đại hạn đều có thể vượt qua.

Saturday, April 15, 2017

May mắn và Phúc đức (phần 2)



May mắn và Phúc đức (phần 2)


Phần trước luận về may mắn của cách cục Cơ Nguyệt Đồng Lương và Cự Nhật phân chia do giao hội thành cách trường hợp. Việc Tử Phủ Vũ Tướng Liêm và Sát Phá Tham cũng chứa may mắn riêng của bố cục chính tinh. Tử Phủ Vũ Tướng Liêm là nhóm sao chủ may mắn do được vị trí trách nhiệm cao thực hiện việc lãnh đạo, người đại diện đứng đầu cho các tổ chức, đưa ra đường hướng hoạt động. Như việc trung tâm đầu não liên quan đến sao Tử Vi. Mệnh Tử Vi may mắn vì được kẻ khác trợ giúp để hoàn thành mục đích sống của bản thân. Tử Vi xấu là mất những thứ quan trọng như công danh, sự nghiệp và đánh mất chính bản thân. Tử Vi khi không may phá cách là xấu hơn các chính tinh khác vì ban đầu ngôi sao này đã mang tính quan trọng, càng tăng thêm cái tốt và xấu. Tử Phủ Vũ Tướng Liêm may mắn khi Tử Vũ Liêm được bộ Phủ Tướng. Tử Vũ Liêm mang tính chất phát sinh là tư tưởng mà bản thân đi theo và hành động vì lý tưởng ấy. Tuy nhiên Tử Vũ Liêm không có đủ sự giúp đỡ vì đây là nhóm sao bạo lực. May mắn khi có thêm Phủ Tướng bộ sao tương trợ, bộ sao dùng lời lẽ để thuyết phục lòng người hay với Thiên Tướng hóa khí là Ấn tức phục vụ cho một mục đích mà cách cục Tử Phủ Vũ Tướng Liêm trở nên hoàn chỉnh. Khi đó lý tưởng của Tử Vi đi liền với tiêu chuẩn đạo đức liêm khiết là sao Liêm Trinh và Vũ Khúc là quần chúng ủng hộ bởi Phủ Tướng chứa đựng lòng nhân ái và quan tâm tới lợi ích của kẻ khác để phục vụ cho lý tưởng đạo đức của Tử Vi.


 Vì ý nghĩa như vậy nên cách Tử Phủ Vũ Tướng Liêm rất dễ bị phá cách khi gặp các sao như Không Vong hay Sát Tinh trùng phùng. Bộ sao Sát Phá Tham đầy đủ may mắn vì thuộc cách đặt mục tiêu tham vọng và thực hiện hóa trong đó đa phần là phá bỏ, phá dỡ nhưng thứ xấu mà Tử Vi mang lại. Phá Quân là sao chủ đứng đầu, tính chất phá bỏ, thay đổi gặp may mắn vì được tìm ra những thứ xấu. Sát Phá Tham có tính chất Sát vì đây thuộc nhóm Sát Tinh. May mắn của Sát Phá Tham ở những kế hoạch được hoàn thành đầy đủ với các chỉ tiêu. Sát Phá Tham đầy đủ tính chất cương cường, bất ổn định và dễ khiến bàng tinh mang tính Sát giao hội tăng tính chất cực đoan. Nếu Tử Vũ Liêm không có Phủ Tướng mà giao hội với nhóm Sát Phá Tham ở các cung độ Tị Dậu Sửu, Hợi Mão Mùi. Cái may mắn của Tử Vũ Liêm ngộ Sát Phá Tham cũng là cái không may của cách cục này khi tạo ra mâu thuẫn lớn để thức đẩy sự phát triển theo chiều hướng tốt đẹp. Không may nhất của cách cục này là tính chất Sát trở nên tăng cường khi hai nhóm sao này giao hội với nhau. Tử Vũ Liêm gặp Sát Phá Tham nhìn chung tính chất không hay mang nhiều xung đột của cách cục.bộ Phủ Tướng tại đối cung đơn thủ. Phủ Tướng có tính cẩn trọng, hiền lương cách và chủ giúp đỡ kẻ khác.

Tác động của chữ Không và Vong



Tác động của chữ Không và Vong


Không Vong là các sao và khí có tính chất đúng như chữ Không, ngoài ra ta còn thêm chữ Vong với một số sao. Tạm gọi Tuần Triệt là sao. Nhiều bài người viết đã đưa ra tính chất của Triệt, Tuần và Thiên Không. Thực chất trên lá số Tử Vi chỉ có ba sao này có tính chất của Không và Tuần Triệt là cặp tác động lớn tới bốn cung trực tiếp và tổ hợp tam hợp chiếu gián tiếp qua ý nghĩa của bản cung. Thường thì các câu phú khi luận tới Tuần Triệt đưa ra các cách cục khó hiểu về Tuần và Triệt. Thực chất hai sao này có tính chất hoàn toàn khác nhau ngay về tên gọi thể hiện tính chất và qua nghiệm lí với Tuần Triệt. Mệnh có Triệt thủ mệnh thường được luận tuổi nhỏ khó khăn vất vả, khi nhìn các lá số cả cách cục tốt đẹp lẫn trung bình hay xấu đều có tính chất chung là tuổi nhỏ vất vả, khi bắt đầu bước qua đại hạn thứ hai có phần tốt đẹp hơn mặc dù vẫn có Triệt tại bản cung hạn. Triệt có tính chất trừ bỏ, có chữ Không do tính phá bỏ của sao này. Với Triệt tại cung nào trên lá số tử vi ta dễ bị trừ bỏ một thứ nào đó. Vì vậy các sách viết Triệt tại cung Huynh Đệ dễ mất anh em. Triệt tại cung Phụ Mẫu dễ có sự xóa bỏ một phần tình cảm với cha mẹ hoặc phụ mẫu có sự chia ly hay xa cách. Triệt Lộ có tính chất tác động làm tính chất của sao bộc lộ rất lớn. Một Thiên Cơ có chữ bí mật trong công việc kinh doanh hay đời tư cần thiết  tránh được sao này. Ngoài cuộc sống thực tế có những suy nghĩ hay tính cách đều có thể phản ánh được trong tử vi và xếp mức quan trọng của bên ngoài cũng tương tự về mức độ trong Tử Vi.


Thực chất là do Tử Vi phục vụ mục đích mô tả và dự đoán tính cách thể hiện bên ngoài hay tiềm thức dẫn tới tai họa hay tai kiếp. Đi sâu bên trong là cách đồng khí tương cầu. Không ngẫu nhiên ta tự nhiên chết trong một chuyến tai nạn mà thường do phần nhiều là khí của mệnh sắp tuyệt, phần khác do khí thu của những phần cao hơn như vận làng, vận nước, những thứ được thành lập khai mở như lập một tổ chức hay tạo ta một đồ vật đều phải chịu các quy luật này không chỉ con người hay các loài vật sống. Chữ Không Vong tác động tới bất cứ mọi phần mà con người nhìn thấy được, chính là sự diệt phản ánh qua tâm của con người. Mất đi chính là Không. Vì vậy tác động của Không Vong mạnh hơn tất cả các cách cục tốt xấu khác vì các cách cục này đều mang ý nghĩa bên ngoài thể hiện là tồn tại hoặc bị tác động. Chữ Không ta có thể nhìn ra bên ngoài thực tế là không còn, không chết, không sống, không bao giờ thất bại, không xấu, không đẹp, không tự tin, không may mắn, vô phúc, không có lý tưởng. Vì chữ Không tác động quá lớn tới mọi mặt nên Không Vong hầu như có sự tác động tới toàn bộ lá số Tử Vi và tính chất tại mỗi cung hiển lộ. Chữ Không do tính chất rất mạnh nên qua thực tế một số lý tưởng dẫn dắt toàn bộ của quốc gia như đạo Vô Vi, đạo Phật có tính lan tỏa mạnh vì chạm tới sâu trong tiềm thức. Chữ Không có một số cách dường như không thể tin vì quá tầm nhận thức ta dễ nhìn ra sau khi xem các phát minh về khoa học và nhận định của người đời lúc đó. Một số trường hợp do dụng được chữ Không mà thành tựu không có cách cục thượng cách nào có thể ngang bằng.

Friday, April 14, 2017

Cung Sửu Mùi với các Chính tinh (phần 2)



Cung Sửu Mùi với các Chính tinh (phần 2)


Nhóm sao Tử Phủ Vũ Tướng Liêm và Sát Phá Tham rối loạn tại đây khi hình thành các cách Phủ Tướng đơn thủ và Sát Phá Tham giao hội Tử Vũ Liêm. Ở vị trí cung Sửu Mùi bộ Phủ Tướng hai sao tam hợp chiếu lẫn nhau căn bản là cách cục ổn định không có biến động theo các chiều hướng cực đoan. Với Thiên Phủ cư tại Sừu Mùi tính chất đầy đủ của sao mày khi độc tọa. Thiên Phủ cư tại đây thuộc bình thường cách nếu không được bàng tinh tốt dẹp trợ giúp, nổi bật ở sự cẩn trọng và soi xét trước khi thực hiện công việc. Sao Thiên Phủ có Thiên Tướng cư Mão Dậu tam hợp chiếu không có hóa khí và ít ngại các sát tinh như Kình Đà Hỏa Linh, lưu ý với Kình Dương tránh biến Kình thành Sát do các hung tinh khác trợ giúp ảnh hưởng tới tính chất che đậy của sao này. Thiên Phủ tại đây cần thiết được Tả Hữu tại bản cung nếu không khó có thành công ở mức độ lớn. Sao Thiên Tướng cư Sửu Mùi thì tam hợp ở cung Mão Dậu là sao Thiên Phủ. Nhị hợp với Cự Môn tại cung Tí Ngọ. Sao Thiên Tướng tại đây cũng thuộc cách tương trợ, giúp đỡ nhưng do không có Tử Vi để phục vụ cho lý tưởng và Vũ Khúc là sao quan trọng chủ tài năng nên Thiên Tướng khó phát huy được tính chất. Ở đây Thiên Tướng dễ có liên quan tới Cụ Môn chủ phản đối, bất mãn và ra tay trợ giúp cho sao này trong khi bối cảnh rối loạn ở tam hợp cung xung cbiếu.


Ở cách Tử Vũ Liêm giao hội với Sát Phá Tham hình thành nhiều bộ sao tại đây gồm Tử Phá, Vũ Tham, Liêm Sát. Các sao thuộc hai nhóm sao này đều ở tráng thái đồng cư tại mệnh với một sao của nhóm còn lại. Với Tử Phá cư Sửu Mùi là cách cục tạo mâu thuẫn lớn nhất giữa hai nhóm sao trong trường hợp đồng cung giữa hai sao có thuộc tính trái ngược nhau nên việc xem mệnh tạo thiên về nhóm sao nào cũng cần thiết để luận đoán, cổ nhân thường gọi cách này nửa chính nửa tà khi trong tính cách của bản thân vừa xây vừa phá, lúc muốn đóng góp cống hiến, lúc muốn tư lợi mà tranh đoạt nên khó luận. Đặc biệt tại đây hai sao đứng đầu của Tử Vi đồng cung nếu đắc cách mang ý nghĩa lãnh đạo. Với Vũ Tham thủ mệnh là tài cách thường được đưa ra trong các câu phú, cách này thuộc một trong các cách hay nhất trong trường hợp hai nhóm sao giao hội, chủ ham muốn đi với kế hoạch, đường hướng và tăng nặng lòng tham tài vật, Vũ Khúc và Tham Lang là hai sao tài năng và tính Sát của Tham Lang không như Sát Phá. Với cách cục Liêm Sát cư Sửu Mùi là cách cục mang ý nghĩa tranh đoạt chữ danh, tranh đoạt về tính liêm khiết. Sao Liêm Trinh biến Thất Sát từ tranh đoạt trở nên ngay thẳng như cách Thất Sát ngộ Thiên Hình đắc cách " Thần long định giáng". Bộ Liêm Sát khi xấu là bị họa sát thân nên xét về tai nạn cũng là cách cục xấu. Nhìn chung ở cách Tử Phủ Vũ Tướng Liêm và Sát Phá Tham tại đây không có mấy cách cục mang ý nghĩa tốt đẹp.

May mắn và Phúc Đức

May mắn và Phúc Đức


Trong cuộc sống thường nhật việc may mắn đi liền với phúc đức mỗi người. Cái may mắn thường đi liền với việc diễn biến âm thầm và sự việc bất ngờ xảy ra và họa qua đi trong những việc ta không lường trước được. Có nhiều loại may mắn và người viết hay đưa ra tính chất ý nghĩa của sao Thiên Lương cũng là may mắn. Sự may mắn của Thiên Lương khác sự may mắn của Thiên Đồng, cũng khác sự may mắn của Thiên Cơ. Thực chất tất cả các chính tinh đều có thể hình thành cách cục may mắn. Thiên Cơ thường may mắn vì gặp được cơ hội tốt đẹp mà đổi đời, khi gặp nguy cơ thất bại thì luận là không may. Thiên Đồng cái may khi được sự phúc thọ và thường trợ giúp người hưởng cái niềm vui khi được chia sẻ trong cộng đồng, tập thể. Nếu không may là ta gặp phải tai họa chung với mọi người và trường hợp không may nhất hay gọi là xui xẻo thì ta vong mạng. May mắn có ở Tử Vi khi cuộc sống có ý nghĩa bởi ta có mục đích lý tưởng sống và hành động thực hiện ý tưởng ấy. Nếu không may thì ta không thể làm chủ được suy nghĩ, cuộc sống không có mục đích hay chỉ sống cho mục đích của kẻ khác. Sự may mắn mang ý nghĩa rất rộng do mỗi người tự nhìn thấy bởi nhận thức riêng của bản thân. Sự may mắn đi liền với hạnh phúc, không may đi với buồn phiền. Có khi sự nguy hiểm, nguy cơ, không may mắn lại ẩn chứa ngay trong cái may. Như việc trong họa có phúc, trong phúc có họa luân phiên lẫn nhau. Trường hợp bàn luận theo cách cục của nhóm sao lớn. Cái may của nhóm sao Cơ Nguyệt Đồng Lương và Cự Nhật phân chia thành các trường hợp hai bên giao hội lẫn nhau hình thành cách Cự Cơ Đồng và Âm Dương Lương. Nhóm văn tinh và nhóm sao đứng đầu về phản đối phân thành các trường hợp trên với ý nghĩa may mắn khác nhau. Cách cục Cơ Nguyệt Đồng Lương được đánh giá là may mắn nhất khi xét về ý nghĩa tai họa hay việc thụ hưởng tinh thần hay vật chất của cuộc sống thường ngày.


Cách này thuộc nhóm Văn Tinh đầy đủ tính chất với ý nghĩa sự hiền lành, phúc thọ, từ thiện, bất phạ tai ương họa hại, nắm bắt cơ hội tốt và yên ổn cách. Trong đây khi tốt ta có các tính chất may mắn như vậy. Thiên Lương thường được gọi là may mắn vì đây là sao chủ che chở thoát khỏi dễ dàng qua các tai nạn, họa lớn. Đặc biệt nếu có cách Đồng Lương cùng tọa thủ tính chất vô tai vô họa càng thể hiện rõ trong cuộc sống. Cái may mắn còn thể hiện ở việc tinh thần không phải chịu cảnh tranh giành, đoạt lấy về quyền lực hay tiền tài mà thường có tinh thần vui vẻ hòa đồng. Tuy nhiên sự không may của nhóm sao này kể cả khi đắc cách là việc vị trí, khả năng lãnh đạo không lớn, khó có thể có được uy quyền đứng ở vị trí đầu trong xã hội hay một nhóm người mà thường ở vị trí trợ giúp, tham gia vì vậy khi cách cục trở nên không may mắn mang ý nghĩa xấu và thường phải nhận tai họa đầu tiên. Như cách Cơ Nguyệt Đồng Lương xấu là việc dân thường do sự bất ổn của bộ máy đứng đầu đất nước hay lý tưởng của Tử Vi như việc nước Triều Tiên hiện nay khiến cả xã hội phải chịu bất ổn, có thể xảy ra chiến loạn thương vong thiệt hại cho người có nhóm sao này. Trường hợp xấu nhất là kết quả không may với tập thể dẫn tới tai họa lớn tới tính mạng.

Luận về Âm Dương Lương cách

Luận về Âm Dương Lương cách


Sao Thái Dương giao hội với bộ Âm Lương hình thành cách cục Âm Dương Lương. Cách cục này có các vị trí rất hay mặc dù tính chất không hoàn chỉnh do ở vị trí của bộ Âm Dương sáng mang ý nghĩa hay về mặt công danh và may mắn. Âm Dương Lương là cách của sự êm đềm. Thái Dương cư với Cự Môn là phản đối công khai, đi với Âm Lương là ngày đẹp yên bình. Khi Thái Dương sáng ta nhìn thấy mọi thứ đều tươi sáng ngay cả khi gặp khó khăn và khi tối là cách cuộc sống buồn tẻ, chứa nhiều phiền não ảnh hưởng tới tinh thần và kết quả hành động. Xét chung cách cục Âm Dương Lương trở nên hay khi giữ vững được sự ổn định và tinh thần tươi sáng. Khi hình thành cách cục Âm Dương Lương thì phía tam hợp đối cung luôn hình thành bộ Cự Cơ Đồng chứa tính thị phi, bất ổn. Mệnh có sao Thái Dương hay Thái Âm tại đây có cách Dương Lương cư Mão, Thái Dương cư Tị, Thái Âm cư Dậu, Thái Âm cư Hợi. Các vị trí tại đây hai sao này thủ mệnh không gia Sát Kỵ được hưởng sự nhất sinh khoái lạc, niềm vui của tinh thần nhờ sự lạc quan khi thực hiện các công việc. Với vị trí Âm Dương cư Sửu Mùi làm việc hay bỏ dở, tinh thần thất thường nên khó thành tựu hơn các cách trên mặc dù Âm Dương tại đây bình hòa không luận là xấu. Âm Dương Lương cần thiết được cách hưởng thụ nghệ thuật và hiểu biết sâu rộng. Cách Âm Dương Lương có Xương Khúc rất đặc lực vì bộ sao này bổ nghĩa cho cách cục chủ sử dụng mặt và tai vào các việc liên quan tới hiểu biết như tìm hiểu hay lắng nghe nên được luận là cách đặc lực cho Âm Dương.


Sao Thiên Lương tại đây mang ý nghĩa may mắn do chính bản thân tạo ra khi thủ Mệnh, tức việc bản thân vận động tìm tòi và xuất hiện may mắn từ đây. Trường hợp thứ hai khi sao Thiên Lương tam hợp hình thành cách được hoàn cảnh trợ giúp, với cách này cũng hay nhưng mang tính bị động không phải chủ động tạo ra may mắn như trường hợp ở bản cung. Âm Dương Lương chứa đựng đầy đủ ý nghĩa của Thiên Lương đóng vai trò lớn trong việc ổn định cách cục này chủ có tính chất từ thiện không có tính Sát và hóa khí là che chở. Do cách cục này không có các chính tinh chủ đứng đầu nên đa phần ở nơi trợ giúp cho Tử Vi, Phá Quân hay Cự Môn. Cách cục hay nhất là Dương Lương cư Mão hay Thái Âm cư Hợi thuộc tinh hệ Tử Vi cư Ngọ. Trường hợp xấu nhất là cách Thái Dương cư Hợi có tên riêng là Nhật trầm thủy bể. Công danh sự nghiệp với cách cục này thường khó khăn vì đây ám chỉ ngày tháng u tối, vất vả. Mệnh có cách cục này khó thành công và rất cần thiết được bàng tinh cứu vãn. Trong trường hợp tốt đẹp có thể hợp cách trong thời buổi tối ren, bầu trời đen tối như việc chiến loạn. Cách cục Âm Dương Lương rất dễ gặp phá cách khi kiến Sát Tinh và không có sức chế hóa được Sát như Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp do không có sao chủ lãnh đạo và các sao có tính cương cường, cố gắng vượt qua khó khăn trong các cách cục.

Thursday, April 13, 2017

Cung Sửu Mùi với các Chính tinh



Cung Sửu Mùi với các Chính tinh


Cung độ Sửu Mùi thuộc Tứ Mộ gồm Thìn Tuất Sửu Mùi. Ở cung này thuộc tam hợp Hợi Mão Mùi và Tị Dậu Sửu nên các nhóm sao giao hội lẫn nhau. Bài viết này xét các cách cục văn tinh thủ mệnh cư tại hai cung này. Với cách cục Cơ Nguyệt Đồng Lương và Cự Nhật giao hội hình thành cách Cự Cơ Đồng và Âm Dương Lương. Tại cung Sửu Mùi ở cách Cự Cơ Đồng có cách cục Cự Đồng, Thiên Cơ. Với cách Cự Đồng cư Sửu Mùi không được đánh giá cao vì cách này có tính chất chia rẽ trong nội bộ. Thuộc tinh hệ Tử Vi cư Tí Ngọ tốt đẹp trong khi Cự Cơ Đồng bất ổn. Khi Tử Vi độc tọa đầy đut bộ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm với các vị trí hợp lý thì Cự Phá lạc hãm. Ở đây Cự Môn có ngôi sao cộng đồng tại bản cung tạo bất mãn tập thể sai lầm vì lý tưởng của Tử Vi là chính nghĩa, có tính có lý vì vậy Cự Môn mang cách cục phản đối bất mãn cho tới phản bội trong tập thể và chịu tai họa từ đây. Cự Môn tại đây vừa sai lầm vừa có tính thấp cổ bé họng nên thường mang bât mãn trong lòng. Với cách cục Thiên Cơ độc tọa tại cung Sửu Mùi là cách cục bình thường mỗi sao tọa thủ một cung. Thiên Cơ tại đây nếu có Tam Hóa hay Phụ Tinh gồm Tà Hữu Xương Khúc có thể đạt được thành tựu.


 Tuy nhiên do không có được Thiên Lương may mắn hoặc Thái Âm hoàn chỉnh cách cục Cơ Nguyệt Đồng Lương hay được Cự Môn tăng khả năng đứng đầu, lãnh đạo nên thường sự nghiệp không lớn, được hưởng thụ về tinh thần là chủ yếu nếu được các bàng tinh trợ giúp. Với cách cục Âm Dương Lương có bộ Âm Dương đồng cư Sửu Mùi và Thiên Lương tại đây. Cách Âm Dương Sửu Mùi là cách cục không mấy hay khi tọa thủ mệnh, cung Sửu sao Thái Dương tốt trong khi Thái Âm tối và ngược lại ở cung Mùi. Mệnh có cách này thường tính tình trước siêng sau bỏ dở, khó mà đạt được thành tựu khó không có tính cố gắng, kiên trì mà ham việc hưởng thụ. Âm Dương thường được luận bởi các câu phú không có bàng tinh tốt đẹp trợ giúp phản vi hung. Cần thiết có thêm Khoa Lộc tăng tính hiểu biết và đây là cách tích lũy giảm tính chất bỏ dở của sao này. Với cách Thiên Lương cư Sửu Mùi cũng không đặc sắc đặc biệt khi Âm Dương ở hai cung tam hợp lạc hãm khiến hoàn cảnh trở nên tối tăm khi cư tại Mùi. Với sao Thiên Lương cư Sửu được bộ Âm Dương sáng xét sự may mắn tốt đẹp hơn vì bố cục Âm Dương Lương quan trọng tính sáng tối của hai Chính Tinh này. Nhin chung hai nhóm sao Cơ Nguyệt Đồng Lương và Cự Nhật tại đây xen lẫn nhau thành các cách cục xấu và bình thường không có nhiều giá trị như ở các cung độ khác.

Luận bàn về ngôi sao Cự Môn



Luận bàn về ngôi sao Cự Môn


Nhiều bài viết tác giả đã đưa ra gần như hoàn toàn các cách cục cơ bản của ngôi sao này. Cự Môn đặc biệt vì lấy được quyền uy hay vị trí đứng đầu mà không cần tới chữ Sát khi chỉ xét bố cục chính tinh như Sát Phá Tham hay Tử Vũ Liêm. Tọa thủ ở mười hai cung ở cung vị nào cũng mang bất mãn do sự khám phá luôn hướng tư tưởng về sự mâu thuẫn. Vì vậy cuộc đời của Cự Môn luôn gắn với tài năng lớn và sự bất mãn với xã hội. Cự Môn bộ phận chính xác là cái miệng, chỉ cần thủ mệnh thì quanh sự hay ngay cả ngoại hình đều gây chú ý bởi bộ phận này. Cự Môn tính tình ưa cãi trong trường hợp gặp các sao có tính dương và bộc phát. Các trường hợp gặp nhóm sao ẩn hoặc tích lũy thuộc cách nuốt giận vào bên trong tạo lực kích phát trở thành tài năng. Cự Môn đặc biệt thời nay có văn tinh hợp với việc nghiên cứu khoa học công nghệ tiên tiến. Cự Môn có tính thị phi nổi bật nhất của sao này. "Cự Môn định chủ thị phi". Có những hành động gây ra tranh cãi của số đông, đa phần cách này thường có mặt khi Cự Môn giao hội với Cơ Đồng làm rối loạn bộ Cơ Đồng êm đẹp. Thực tế số lượng lãnh đạo có sao này thủ mệnh ngày càng nhiều vì luôn tồn tại mặt trái trong xã hội cần người tài năng giải quyết. Vì vậy hay có trường hợp do lý tưởng của Tử Vi trực tiếp do Cự Môn phía dưới chỉ đạo. Cự Môn thời phong kiến còn tồn tại có mặt ở lá số của vua chúa cũng nhiều. Nhìn vào lịch sử các cách làm phản, tạo phản khi phân chia chính tà theo cách nhìn của nho giao chữ Trung hàng đầu và các cuộc khởi nghĩa đứng lên đấu tranh với những bất công hay tồn tại ở nước ta. Cự Môn khi tốt là đứng lên đấu tranh bằng vũ lực hoặc bằng lời nói thuyết phục quần chúng, lời nói này có phần giống với Thiên Phủ nhưng đa phần là khác về cách thức.


Cự Môn dấy lên lòng bất mãn của số đông tức Cự Đồng đa phần vì lợi ích riêng tư của một nhóm là toàn bộ cách Cự Cơ Đồng mất đi hoàn toàn tính yên ổn của cách này và thay bằng sự xung đột. Khi đi với Phục Binh là cách nổi binh có lực lượng. Vì Cự Phá hay đồng minh với nhau và tạo nên cách nổi binh khiến Sát khí trỗi dậy gây ra chiến tranh thương vong nhiều dân chúng tức Cơ Nguyệt Đồng Lương bình thường không có uy quyền nên mang ý nghĩa xấu và thường chịu hậu quả cũng chữ sát khi thua cuộc. Việc Cự Phá đứng lên khi được quần chúng đa phần khi Tử Vi trở thành Đế ngộ hung đồ, không có thực quyền hoặc các hành vi sai lầm. Việc này suy từ tính quan trọng nhất là vua chúa tới nhỏ nhất là các bộ phận nhỏ như một nhóm người hay thậm chí chỉ là những suy nghĩ trong gia đình. Khi xuất hiện Tử Vi xây dựng luôn luôn có Phá Quân có khuynh hướng phá bỏ, thay đổi và Cự Môn phản đổi khi Tử Vi đưa ra quyết sách. Điều này đúng cả khi con người còn thuở ấu nhi khi học trong tập thể lớp học và từ từ ở mức độ lớn hơn. Cự Môn ưa đứng sự đối lập và sẽ thành vua hay người đứng đầu trong thời loạn và thườngchết khi thua cuộc. Nhìn việc các nước bên ngoài bất ổn chính là mô hình của Tử Vi và đồng minh Cự Phá với tình huống tư tưởng ở mức quốc gia, tuy nhiên các suy nghĩ và kết quả cũng chỉ xuất phá từ tính cách của con người mà ra.

Thiên Phủ đôc tọa cư Mão Dậu (phần 2)



Thiên Phủ độc tọa cư Mão Dậu (phần 2)


Thiên Phủ cư Mão Dậu gặp Tả Phụ đồng cung tối hỉ hình thành bộ Tả Phủ và Tướng Bật do Tả Hữu tam hợp tại đây nên đồng cung với Phủ Tướng.  Khác ý nghĩa so với việc sao Thiên Phủ tam hợp có sao này. Tả Phủ có tính chất hô hào kêu gọi sự đồng lòng trợ giúp lớn, thuộc cách tiền hô hậu ủng sử dụng và tác động bởi lời nói. Thiên Phủ có Tả Phụ còn có ý nghĩa là cách bao trùm của tiếng nói phủ rộng, lan tới khắp nơi, đặc biệt khi hình thành cách Thiên Phủ ngộ Thanh Long tính chất này càng rõ ràng. Thiên Phủ cư Mão Dậu trường hợp gặp Lộc Tướng Ấn là bộ sao hợp cách với Thiên Phủ và bộ Phủ Tướng tăng tính ổn định, quan trọng của cách cục và sự tích lũy của Thiên Phủ và hóa Tướng thành Ấn với lý do phục vụ lợi ích cho quốc gia nên Phủ Tướng mang ý nghĩa hay. Với Thiên Phủ cư Mão có một số trường hợp gặp như tuổi Ất có Lộc Tồn cư Mão, tuổi Nhâm có Lộc Tồn cư Hợi khi đó bản cung Mệnh có Bệnh Phù cách này không hay mang ý nghĩa xấu với bản thân. Với Thiên Phủ cư Dậu hình thành cách Thiên Phủ Lộc Tồn tại tuổi Tân. Với tuổi Bính có Lộc Triệt và Thiên Phủ gặp Bệnh Phù là cách cục xấu. Với tuổi Mậu bình thường. Tại vị trí này gặp Lộc Tướng Ấn với tuổi Ất, Tân hay nhất và không thể có được bộ Khôi Việt tại đây. Thiên Phủ cư Mão Dậu gặp Thanh Phi Phục chỉ hay trong trường hợp đồng cung với sao Thanh Long ở tuổi Bính mệnh an tại Mão và tuổi Nhâm mệnh an tại Dậu có được cách cục này. Phủ Thanh khiến Thiên Phủ khi thủ mệnh gặp Không Kiếp giảm tai họa của cách cục này khi Không Kiếp tam hợp chiếu đủ bộ.


Nếu ở vị trí có Thiên Không và Địa Kiếp đơn thủ như tại cung Thìn Tuất Tí Ngọ cách Phủ Thanh hoàn toàn biến đổi Thiên Không hoặc Địa Kiếp, đặc biệt là sao Thiên Không trở thành cách hay. Cung độ Mão Dậu do Không Kiếp một ở vị trí bản cung, một ở vị trí cung Sửu Mùi cư Quan Lộc mang ý nghĩa tai họa không ngờ mà gặp. Trường hộ thứ hai là cách Không Kiếp cư Tị Hợi tam hợp chiếu với Mệnh do tác động của hoàn cảnh tới bản thân. Ở cách Thiên Phủ cư Mão Dậu ngộ Không Kiếp cư Tị Hợi là cách hoạch phát công danh sự nghiệp vì Thiên Tướng đồng cung với Không Kiếp có tính bạo phát. Thiên Phủ gặp Kình Hao là cách xấu vì Kình có tính tranh đoạt, kỵ ở trường hợp tại bản cung ở tuổi Giáp, Canh có Kình Dương nặng tính Sát do gặp Lưu Hà. Trong trường hợp tại cung vị Thiên Tướng hay cung Sửu Mùi tuổi Đinh Kỷ Quý thích hợp với Kinh thương tranh giành, tính chất của Thiên Phủ mất tính ổn định vì tranh đoạt nhưng dễ thành tựu do Song Hao cư tại Mão Dậu ý nghĩa thay đổi tốt đi với Kình cư Tứ Mộ. Thiên Phủ ngộ Đà Hao cũng thuộc cách bộc phát tuy nhiên Đà La tính chất thu giữ tích lũy mới kích phát trái với Kình Dương, do vậy Đà La có tính Ám. Cách Phủ Đà là cách hay tuy mất ổn định của Thiên Phủ, Đà La chủ mở rộng, Thiên Phủ bao trùm vì vậy kỵ thêm các sao tăng tính ám. Thiên Phủ tại đây ngộ Đà Kỵ không nên gặp Thái Tuế hình thành cách cục che dấu và phô bày mâu thuẫn mà bị phê là cách cuồng ngôn, nói nhiều nhưng người khác không hiểu được mục đích vì Đà Phủ tính che dấu rất tốt.

Wednesday, April 12, 2017

Thiên Phủ độc tọa cư Mão Dậu



Thiên Phủ độc tọa cư Mão Dậu


Ở cung độ Mão Dậu thì Phủ Tướng đơn thủ và phía tam hợp đối cung là cách Tử Vũ Liêm giao hội với Sát Phá Tham. Phủ Tướng cư Mão Dậu thuộc cách cục không hoàn chỉnh khi thiếu Tử Vũ Liêm chủ đường lối, tiêu chuẩn đạo đức và tài năng trong khi Phủ Tướng giỏi việc đối nhân xử thế và khả năng dùng lời nói, thuộc cách khó có thể tạo được sự nghiệp lớn vì chỉ dùng lời nói phủ dụ và tình cảm là không đủ ý nghĩa tốt, đặc biệt với bộ Phủ Tướng không hóa khiến cách cục khó đạt được thành tựu. May thay tại cung độ Mão Dậu các phụ tinh và bàng tinh thường đắc lực tại đây, đặc biệt là bộ Xương Khúc Tả Hữu. Thiên Phủ cư Mão Dậu luôn nhị hợp với sao Thái Dương tại cung Thìn Tuất. Thiên Phủ có tính cẩn trọng, che giấu vì vậy Thái Dương ở cung độ nhị hợp tác động rất lớn tới bộ Phủ Tướng vì tính chất của bộ sao này. Thái Dương nhập La Võng cư Thìn ở vị trí sáng so với cư Tuất lạc hãm. Bộ Cự Nhật tại đây hoàn chỉnh có ý nghĩa thị phi, chủ công khai, công bố những thứ bất mãn hay phản đối cách. Và với Thiên Phủ tốt đẹp thì Thái Dương tác động bằng cách công khai những thứ Thiên Phủ cho bên ngoài thấy và bao phủ những điều bí mật. Trong trường hợp Thái Dương và Thiên Phủ đều hay là cách tương trợ lẫn nhau khiến Thiên Phủ có thêm tiếng nói. Với trường hợp Thái Dương xấu là cách bất mãn lên tiếng và sao Thiên Phủ bị lộ trở nên xấu theo. Ngược lại khi Thiên Phủ xấu sao Thái Dương công khai những bí mật, bất mãn xấu dẫn tới gặp tai họa thị phi tức cách Cự Nhật. Thiên Phủ cư tại Mão Dậu cần thiết gặp các sao có tính ẩn và tránh trường hợp ngộ Không Vong mang tới mất mát. Thiên Phủ tại đây có đặc tính ổn trọng, có khả năng quản lý, sử dụng tài năng của người khác nhờ vào tình cảm. Vấn đề của Phủ Tướng là sự tương trợ ngầm ẩn, chính vì vậy cách Phủ Tướng dù không có hóa khí nếu được bàng tinh mng ý nghĩa tốt vẫn là cách cục đầy đủ tài danh. Thiên Phủ khi độc tọa cần thiết có các sao có tính chất trợ giúp, giúp đỡ và các sao tăng tính ổn định cho cách cục vì Thiên Phủ không có sức đề kháng mạnh với sát tinh như nhóm Sát Phá Tham hay Tử Vũ Liêm. Thiên Phủ tại vị trí này khi phá cách thường tai họa lớn tới mệnh tạo, có thể nguy hiểm tới tính mạng nếu hạn trùng phùng Sát Kỵ. Thiên Phủ khi nhập Mệnh nổi bật ở khuôn mặt thường phúc hậu có từ tâm và suy nghĩ sâu xa, kín đáo. Mệnh Thiên Phủ đơn thủ thường không có tính cương quyết, định hướng lý tưởng và cách thực hiện mà cuộc sống thường ưa ổn định ít biến động.

Cung Mão Dậu với bàng tinh tọa thủ



Cung Mão Dậu với bàng tinh tọa thủ


Ở cung Mão Dậu đa phần các bàng tinh ở vị trí tam hợp chiếu. Bộ Xương Khúc cư Mão Dậu thì tam hợp với sao còn lại tại vị trí Hợi Tị. Cách Xương Khúc tại đây được luận phi vinh tắc phú. Xương Khúc tại đây do tam hợp chiếu đầy đủ tính chất khi xét bố cục. Tùy theo Văn Xương hay Văn Khúc thủ mệnh mà luận sao gắn liền với tính cách bên trong và tác động do hoàn cảnh tới việc thay đổi tính cách. Nhìn chung cách Xương Khúc cư Mão Dậu khá hay đặc biệt với các cách Cơ Nguyệt Đồng Lương cư tại đây là văn cách tăng tính ổn định và hưởng thụ tinh thần văn hóa nghệ thuật cho nhóm sao này, có thể chế hóa một số Sát Tinh tác động xấu tới cách cục. Mệnh có Xương Khúc là phụ tinh quan trọng tính chất mạnh trong Tử Vi có thể hóa khí nên rất cần thiết gặp. Bộ Tả Hữu cư Mão Dậu tại đây cũng được sao còn lại tam hợp chiếu tại cung Hợi Tị nên tính chất hoàn toàn luận theo cả bộ sao này. Tả Hữu là phụ tinh có tính trợ lực lớn do chỉ hóa Khoa nên tính chất thường tốt đẹp, khi ngộ Hung Tinh cũng kiềm chế cách gây họa nếu số lượng và mức độ tạo cách không lớn. Tả Hữu cư tại đây đặc biệt cần thiết cho nhóm Tử Vũ Liêm giao hội với Sát Phá Tham và nhóm Phủ Tướng đơn thủ tại đây. Tả Phụ chủ âm nhu, Hữu Bật chủ dương cương đứng đúng vị trí khi đi với nhóm Phủ Tướng đơn thủ dù không có Hóa Khí nhưng tính chất tài lộc đều đủ hình thành cách Tả Phủ tôn cư vạn thặng và Tướng Bật phúc lai lâm.


Phụ Tinh trong lá số tử vi cư tại cung Mão Dậu được luận theo chiều hướng tốt, tăng tính cát hóa và giải họa cho sát tinh. Ở cung Mão Dậu xét tới cách Khôi Việt cư tại đây tại các tuổi Bính Đinh Nhâm Quý. Với tuổi Bính Đinh chỉ có Khôi không thấy Việt hoặc ngược lại nên tính chất không đầy đủ, trường hợp ở cung xung chiếu được cách Khôi Việt củng chiếu nhưng cũng không luận là hay. Với tuổi Nhâm Quý có bộ Khôi Việt tại Tị Mão và ngược lại cũng tương tự như tuổi Bính Đinh không đầy đủ tính chất tốt đẹp của bộ sao này. Ở đây hình thành cách giáp Khôi Việt cho hai cung độ Thìn Tuất cung an tại đây có ý nghĩa tốt chủ được trợ giúp. Có một số trường hợp cách cục chỉ nên có một sao Khôi hoặc Việt ý nghĩa hay hơn việc có cả hai sao khi Việt là phát khởi và Khôi là bộc phát lớn. Thiên Việt và Thiên Khôi có tính chất hoàn toàn khác nhau, như cách Kình Khôi có ý nghĩa ổn định trong khi Kình Việt có tính tranh đoạt lớn. Lúc cát tinh gồm Khôi Việt Tả Hữu Xương Khúc nhìn chung toạ thủ tại cung Mão Dậu có ý nghĩa khá tốt đặc biệt là bộ Xương Khúc Tả Hữu đầy đủ tính chất hay của phụ tinh. Các sao an theo Thiên Can và Địa Chi tọa thủ tại các cung này cũng mang ý nghĩa đặc trưng. Quan trọng hơn là vị trí của Lục Sát và Tuần Triệt tại đây cũng có mức độ tác họa khác nhau khi chỉ xét riêng đặc tính từng bộ sao chưa xét tới việc phối hợp.