Trời Đất có họa phúc, con người có thời vận. Tử vi đông a trọng khí hình ứng hợp với trợ cách. Nắm được thời vận nghiệp rồng còn khả, huống tới phú quý thường tình.

Trong tử vi có bốn nhóm sao lớn gồm Tử Phủ Vũ Tướng Liêm, Sát Phá Tham, Cơ Nguyệt Đồng Lương, Cự Nhật. Phân hạng người ngoài xã hội không ngoài bốn thứ vậy.

Một lá số tử vi hàng vạn người cùng giờ sinh vậy. Cũng như gieo hạt giống, phát triển biến hóa vô cùng tùy hoàn cảnh bên ngoài ứng hợp. Sinh trụ dị diệt cùng sở đích nhưng tùy khác biệt ở mức độ. Vòng khởi nguyên của mệnh số là vòng chuyển dịch, do biến đổi liên tục nên không có số phận.

Tuesday, February 28, 2017

Phủ Tướng đơn thủ ( Phần 2 )



Phủ Tướng đơn thủ ( Phần 2 )


Trường hợp lí tưởng là cách Phủ Tướng ngộ Lộc Tồn Ấn Tả Hữu gia Xương Khúc Khôi Việt Tuế Phượng Khoa. Trường hợp có Hóa Khoa tại tuổi Tân, Nhâm, Bính, Mậu với Lộc Tồn an tại Dậu, Hợi, Tỵ, Tỵ. Xét tới bộ Tuế Phượng chỉ có tuổi Tân có khả năng có trong tam hợp Mệnh, các tuổi Bính, Mậu, Nhâm đi với địa chi là Dần Ngọ Tuất Thân Tí Thìn không có Tuế Phượng ở các cung Tị Dậu Sửu. Cũng vì tứ hóa của tuổi Tân là Xương Khúc hóa thành Khoa Kỵ. Để được cả Lộc Tồn, Tuế Phượng và Khoa thì có thêm Kỵ. Phối hợp các sao an theo tháng như Tả Hữu, Xương Khúc ta được cách Phủ Tướng ngộ Lộc Ấn Tả Hữu Xương Khúc Tuế Phượng Khoa Kỵ thủ Mệnh. Lưu ý không thể có bộ Khôi Việt vì ở tam hợp Dần Ngọ Tuất. Nhìn chung đây cũng là cách khá hay, cát tinh vây chiếu. Thế nhưng để được cách cục này là lý tưởng với Phủ Tướng đơn thủ là khó khăn. Tất cả các mức độ tốt xấu cần so sánh nên lấy mốc để đo, cái tí lệ để đạt được một bộ Xương Khúc Tả Hữu bất kỳ là khó khăn. Với Xương Khúc chỉ 1/4 số người đạt, thêm Tả Hữu khoảng 10 người trên 100 người tức hơn 90 người còn lại. Nếu có Không Kiếp ta lại vào 1/4 xui xẻo nhất, thêm bộ Hình Kỵ chắc chỉ khoảng 3 người trên 100 người có cách này. Trên cơ sở là như vậy, khi gia thêm hợp cách hay bất hợp cách phúc hóa đều tăng theo số nhân. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng Cát Tinh hay Sát Tinh cũng chỉ là tên gọi của sự giao khí ngũ hành âm dương mà tạo thành. Do đó, xảy ra cách khi Cát Tinh đi với Hung Tinh tai họa lớn hơn cả hai hung tinh giao hội. Điều này khiến Tử Vi luận khó khăn hơn rất nhiều.



 Như cách Hỏa Không Kiếp không độc bằng Đào Hoa ngộ Không Kiếp. Vì một bên là yểu cách và tai họa cách. Vì vậy việc nắm bắt tính chất cơ bản của Chính Tinh hay Bàng Tinh là việc quan trọng hơn. Phủ Tướng quan trọng nhất ở tính cơ bản là sự tác động tình cảm. Luận đoán hợp cách nếu tăng cường tính chất này theo chiều hướng tốt để có thành tựu. Nếu không hợp cách thể hiện rõ mặt khuyết điểm của tính chất cơ bản. Như việc có sự giúp đỡ, tình cảm với người khác rất dễ khiến họ làm việc sức lực cho bản thân. Đôi khi chỉ cần lời động viên, lời hứa khả là rất đủ dùng. Thiên Phủ là sao thuộc tính ẩn, luôn có Thái Dương nhị hợp để thể hiện ra mặt bên ngoài. Thiên Phủ vì vậy được Mệnh danh là " Giao Long vãn uyên" do tính chất che giấu là chủ yếu. Thiên Tướng hiền hòa hơn sao Thiên Phủ nên đặc biệt bộ Phủ Tưởng nhấn mạnh tính chất của Phủ. Thiên Phủ thường có sự suy xét kỹ lưỡng để tránh việc gây tác động tình cảm xấu tới kẻ khác, vì có mục đích nên rất ngại bị Triệt Tuần, gặp Thiên Hư cũng là cách cục xấu vì hình thành cách giả tạo khiến kẻ khác cảm thấy thứ tình cảm lợi ích quá lộ liễu. Phủ Tướng không cần Hóa Khí nhưng tính chất có đủ ở mặt công danh, tài lộc nhưng khó thục hiện nếu đơn thủ. Cách này rất kỵ gặp bộ Không Kiếp tuy không gây nên cách xấu như đủ bộ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm nhưng khiến cách cục trở nên thấp hơn bình thường, nếu trường hợp Không Kiếp cư Tị Hợi có phần khả quan, đặc biệt với Thiên Tướng thủ mệnh là cách cục hay hơn việc có Khôi Việt vì " Không Kiếp tị hợi lưỡng nghi". Cách Thiên Tướng ngộ Không Kiếp thực chất không phải sao Thiên Tướng ngăn được Không Kiếp mà cách Phủ Tướng dụng được Không Kiếp. Tuy nhiên ở vị trí Thiên Phủ rất độc do Thất Sát xung. Ở vị trí Thiên Tướng và tính chất của sao này khi Thiên Phủ phối hợp ở tam hợp tốt hơn.

Monday, February 27, 2017

Luận sao Kình Dương thủ mệnh



Luận sao Kình Dương thủ mệnh


Kình Dương và Đà La luôn nằm hai bên của Lộc Tồn. Kình Dương chủ dương và Đà La chủ âm. Cả hai đều được liệt vào hàng Sát tinh trong Lục Sát Tinh. Kình Dương và Đà La luôn đi kèm với Song Hao. Sự lệch trục của Lộc Tồn và Song Hao là nguyên nhân. Với Lộc Tồn cư Tí Ngọ thì bộ Song Hao nhập Mão Dậu. Trường hợp này cả hai bộ đều đánh giá tốt. Cách này xuất hiện tại tuổi Đinh, Kỷ, Quý. Với Lộc Tồn tại Ngọ ở tuổi Đinh, Kỷ và cư Tí ở tuổi Quý. Bộ Kình Đà thường được nhận xét hãm tới Mão Dậu Tí Ngọ. Khi đó Lộc Tồn cư tại Dần Thân Tị Hợi. Với Kình Đà nhập Tứ Mộ được đánh giá là hay thì Lộc Tồn cư tại Tí Ngọ Mão Dậu. Trục Tồn Phi nên ở tại Tứ Chính thuần khí tức Tí Ngọ Mão Dậu tốt đẹp hơn tại các cung khác. Xét tới Kình Dương, cư tại Ngọ là cách " Mã đầu đới kiếm".
" Kình Dương cư Tí Ngọ Mão Dậu phi yểu chiết nhi hình thương".
Thực chất cách cục này có khuyết điểm nhưng trong tình trạng gia Sát Tinh hạng nặng mới luận như vậy. Qua nghiệm lí đặc biệt cách Sát Kình cư tại Tí Ngọ không độc mà đặc biệt khi có Kình Đại Hao là cách cục cục khá hay thường có danh tiếng. Thất Sát khi tốt đẹp có tính cẩn trọng lớn, trường hợp độc tọa tại Tí Ngọ Dần Thân có tính chất như vậy. Kình Dương thể hiện tính chất rõ rệt khi đứng ở cung Vô Chính Diệu.



Trong trường hợp này lấy sao này làm cách cục riêng, tam hợp các chính tinh phối hợp với Kình Dương thành cách. Kình Dương một số người cho rằng liên quan tính chất với Dương Nhẫn trong Tử Bình nên gọi là Dương Nhẫn. Thực chất Kình Dương trong Tử Vi khác với Dương Nhẫn trong Tử Vi. Sao Kình Dương là ngôi sao của sự cương quyết, không kiềm chế, tấn công. Ngoài ra Kình có tính phản đối. Kình Dương là sao chủ tính Kim, lại mang tính dương nên chủ gây sát thương, chứa tính sát và họa cũng liên quan tới tính chất này. Kình tức chủ to lớn, mệnh có sao này hợp cách chủ chí khí lớn, xét xấu tốt do tính chất tranh đâu đoạt của sao này gây ra nên thường luận là tiểu nhân. Kình Dương là sao tăng giá trị của cách cục. Ta có võ cách là bộ Kình Tứ Mộ ngộ Thiên Mã.
" Kình cư Tứ mộ Mã triều lai biên cương ắt hẳn ra ngoài võ công".
" Kình Dương nhập miếu phú quý danh dương".
Kình Dương khi đắc cách thì rất tốt đẹp nhưng cũng như các sát tinh Đà Hỏa Linh Không Kiếp luôn chịu tổn thất nhiều hợ mặt lợi ích. Khi Kình Dương chuyển thành hung khí, thành lao vào tử địa tất cả do tính chất của sao. Các Sát Tinh đều mang tính chất dễ gặp tai họa. Kình Dương ngộ Hình Kỵ là cách tự gây thương tích cho bản thân hoặc gây thương tích cho kẻ khác, có trường hợp kẻ khác gây cho ta. Kình Dương ngộ Không Kiếp rất hung chủ tai kiếp cần chống đỡ khó có thể vượt quá. Tất nhiên đây là trường hợp lí tưởng, thường trên lá số phúc họa đan xen.
" Tử Phủ Kình Dương tất cự thương".
Cự chủ lớn, đây là cách giỏi tranh đấu trong việc cạnh tranh buôn bán, cách này cần thêm Quyền mới dễ thành công. Nếu chỉ có Từ Phủ ngộ Kình Dương thì khoa thành cách cục cự thương mà chỉ ở mức buôn bán có cửa hàng do bản thân làm chủ. Kình Dương gặp cung hạn có Thiên Cơ là lúc cơ hội đến, hạn qua sao này cần chú ý đặc biệt nếu hình thành bộ Cự Cơ là cách rất hay. Kình Dương cần gặp Khôi Việt hình thành bộ Kình Khôi Việt chủ sự tranh giành đạt hiệu quả do nắm bắt từ khi khởi phát đến lúc cao điểm mà giành được, cách Kình Khôi cũng là sự giao hội của hai sao tăng sức quan trọng, bộc phât cho cách cục.  Kình Dương rất dễ trở nên thái quá do đặc tính dương, là ngôi sao dẫn đầu về viễ xấu hay tốt, thành công hau thất bại vì vậy cần chú ý để các cách xấu gây biến chuyển theo chiều hướng xấu của Kình để đưa ra dự đoán chính xác.

Phủ Tướng đơn thủ ( phần 1 )


Phủ Tướng đơn thủ ( Phần 1 )


Thiên Phủ và Thiên Tướng luôn tam hợp với nhau tạo thành nhóm Phủ Tướng. Nhóm sao này không có tính chất đặc biệt, rất bình thường về các mặt. Sách viết thường đề cao quá mức sao Thiên Phủ và cách Phủ Tướng. Cách này chỉ có giá trị đặc biệt trong trường hợp Thiên Phủ và Thiên Tướng giao hội với nhóm Tử Vũ Liêm hình thành bộ Tử Phủ Vũ Tướng Liêm đầy đủ. Cách Phủ Tướng đơn thủ tại cung Mão Dậu, Tị Hợi, Sửu Mùi. Thiên Phủ cư tại các vị trí này thường tính chất không đầy đủ và chịu tác động mạnh của bố cục Thất Sát. Với Thiên Phủ cư Mão Dậu thì Vũ Sát cư Dậu Mão. Với cung Tị Hợi gặp bộ Tử Sát và cư Sửu Mùi gặp cách Liêm Sát. Vô hình chung cả bộ Tử Vũ Liêm đi với Thất Sát khi bộ Phủ  Tướng đơn thủ. Thiên Phủ rất quan trọng tính chất sao đối cung, vì đây thuộc cách Phủ Tướng ít bị ảnh hưởng bởi các cách cục khác. Dù Thất Sát độc tọa hãm tại Thìn Tuất hay đắc tại Tí Ngọ Dần Thân, nếu độc tọa thì Phủ Tướng giao hội Tử Vũ Liêm đều là cách cục tốt đẹp. Phủ Tướng nhấn mạnh tại tính ổn định. Nếu xấu xảy ra sự mất ổn, cũng không kiềm chế chuyển hóa được Sát Tinh khiến Mệnh tạo phải vất vả, khổ sở gánh chịu tai họa. Với Phủ Tướng đơn thủ nếu đắc cách cũng khó mang lại thành tựu lớn. Sở dĩ cách này phúc họa trung bình vì không có thêm Chính Tinh tại tam hợp gây thay đổi biến hóa tính chất dẫn tới hai chiều cực đoan. Cũng không gặp Hóa Khí tại bản cung hoặc tam hợp do Chính Tinh hóa ra mà chỉ gồm phụ tinh Tả Hữu Xương Khúc nếu có.


Ngay cả bên ngoài sao Thất Sát cũng không hóa khí mà chỉ đi kèm với nhóm Tử Vũ Liêm hóa. Không chỉ cách Phủ Tướng đơn thủ là bình hòa cách mà trong Tử Vi còn nhiều cách cục khác như Thiên Cư Sửu Mùi, Thiên Lương Sửu Mùi... Phân ra những cách cục tốt đẹp ắt phải có cách cục bình thường và xấu. Sao Thiên Phủ trong trường hợp này không đầy đủ tính chất, đặc biệt về tính tài lộc. Cần thiết được Lộc Tồn thủ Mệnh hoặc có bộ Lộc Tồn Ấn tại tam hợp Mệnh. Đây là cách tích lũy tài sản cho bản thân, cũng là cách tạo tình cảm, kỷ niệm gắn bó để bộ Phủ Tướng tăng tính chất tình cảm của cách cục. Thứ đến là bộ sao Tả Hữu, hinh thành cách trợ giúp và được trợ giúp. Thiên Phủ đắc cách là khiến Thất Sát bên ngoài trở thành người phục vụ. Tuy nhiên để kẻ như Thất Sát trong trường hợp này có thêm cả tính chất khác do Tử Vũ Liêm giao hội không như Sát độc tọa cống hiến cho bản thân thì Phủ Tướng rất cần cách tình cảm trở nên tốt đẹp hơn. Thiên Phủ thiên về lời nói và Thiên Tướng thiên về hành vi. Vì vậy sao Thiên Phủ cần Tả Phụ để nói, hiệu triệu và Thiên Tướng cần thiết có Hữu Bật. Ở đây trường hợp đồng cung là tốt nhất, tam hợp không tốt đẹp bằng.
" Tả Phủ đồng cung tôn cư vạn thặng".
" Thiên Tướng Hữu Bật phúc lai lâm".

Sunday, February 26, 2017

Cung Mệnh Thân và mấu chốt luận đoán



Cung Mệnh Thân và mấu chốt luận đoán 


Việc luận giải Mệnh - Thân - Hạn là bộ ba không thể thiếu của Tử Vi. Tử vi gọi là môn Đẩu Số tức chủ liên quan tới tinh đẩu và lý số. Ở lý số vận dụng nguyên tắc của Dịch biến. Tiền nhân tuy không có những kiến thức khoa học như toán học hay vật lí nhưng môn Dịch Số được đánh giá là kỳ quan của văn hóa phương Đông. Tất cả mọi vật không nằm ngoài lí của Âm Dương biến đổi tuần hoàn. Định luật này đúng đến cả mức khoa học ngày nay cũng công nhận. Lý thuyết của Âm Dương dùng sự suy xét, trí tuệ nhận biết mà ra. Khoa học tiến bộ cũng nhờ trí tuệ của sự tìm tòi. Vì vậy tuy hai đường đi khác nhau nhưng cùng đến một chân lí. Sau lí của Âm Dương tới lí của Ngũ Hành. Việc sinh khắc của thế giới đều có thể khái quát về các thuộc tính ngũ hành. Biết sự tác động của ngũ hành dẫn tới những dự đoán về tính cách của con người. Với hành thủy tác động thì cơ bản là sự chuyển dịch, lưu thông của tính cách. Tuy nhiên một tính cách không đơn giản như vậy mà liên quan tới đầy đủ ngũ hành, với tính chất hai mặt của Âm Dương tới một hành ta có tổng hợp là 10 thiên can theo thứ tự Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Quý. Đây là Thiên Can, tức do trời tác động, thực ra chỉ là những hành luôn tồn tại trong mỗi sự vật. Còn lại là Địa Chi tức khí của đất, ở dưới gồm các Thiên can ẩn bên trong. Gồm 12 địa chi thứ tự Tí Sửu Dần Mão Thìn Tị Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi không thuần, tức bị ảnh bởi tác động của đất nên chứa sự thịnh suy của ngũ hành, chứa ít hoặc nhiều Thiên Can ngay trong lòng địa chi. Hợp nhất lại ta được 60 năm. Mệnh và Thân hay Hạn không nằm ngoài sự cơ bản của Dịch Số. Nên xét đầu tiên là sự nhận bản thể của Mệnh. Tức bản chất của thể ta khi sinh ra, tức bắt đầu hấp thụ khí mới qua vòng Sinh Vượng Mộ với gốc là ngũ hành. Tiếp theo sau khi có gốc, nhận tác động của các hành khác khiến có sự biến đổi về phát triển. Các Chính Tinh chính là sự tác động vào tâm tính, khiến sự thay đổi từ gốc ban đầu diễn ra. Tương tự như một cái cây ta phân biệt gốc rễ, thân cây và cành lá. Ở đây Thân cũng là thứ quan trọng, nhưng Mệnh là gốc rễ căn nguyên của Thân. Mệnh là cái tàng ẩn, Thân là cái lộ ra bên ngoài của tính cách. Mệnh là bắt nguồn khởi tưởng, Thân là dòng suy tưởng. Thân là phần được gọi là bản thân, Mệnh là cái gọi là bản tính. Tiền nhân khi xưa sử dụng từ ngữ chuẩn mực vì không ưa nói điều không xác thưc, nói điều không diễn rõ ý. Muốn nói bản thân hay bản tính quan trọng hơn thì chỉ cần hiểu rõ nghĩa lý của hai từ này. Với bản tính có thể gây ra cái chết cho bản thân vì như bản tính thích nghịch dại thì dễ gây kết quả tử nạn vì dại. Với bản thân khi dấu hiệu sao bảo chết là chắc chắn chết. Vì vậy, Thân quan trọng hơn Mệnh. Còn nhiều ý nghĩa của cung an Thân nhưng không cần hiểu nhiều làm gì vì không có tính lợi ích. Khi trồng một cái cây cần thiết biết cấu tạo cơ bản hay đặc tính của chúng. Nhưng không cần thiết quá phải biết chúng có những tế bào loại gì, có khoảng bao nhiêu cái lá. Những việc quá đi sâu như luận cả về ngôi nhà đang ở, hay luận cả về việc hình dáng của chúng ta sau 1 năm nữa là không cần thiết và khả năng chính xác không cao. Vì vây rõ Mệnh Thân tức rõ một nửa của tử vi. Hạn là cái mà tác động tới cả Mệnh và Thân, chính là tất cả ở thời điểm hiện tại. Cái mà quan trọng thì rất ngắn gọn đâu cần phải viết dài dòng. Khi diễn giải mới nên mở rộng sâu.

Saturday, February 25, 2017

Cự Nhật Dần Thân thủ mệnh



Cự Nhật Dần Thân thủ mệnh


Cự Môn và Thái Dương đồng cung tại Dần Thân là cách cục khá đặc biệt khi đầy đủ bộ Cự Nhật và cả ba cung Tài Bạch, Quan Lộc và Thiên Di đều vô chính diệu. Chỉ hai sao Cự Môn và Thái Dương nhưng đầy đủ tính chất của một nhóm sao. Đặc biệt ngôi sao Cự Môn thủ Mệnh dù cách cục xấu tốt nhưng luận khác biệt với các chính tinh khác. Cự Môn khi tốt là đứng đầu thiên hạ, không cần thiết sự trợ lực như Tử Vi cần thiết có Phủ Vũ Tướng Liêm mà Cự Môn có tính chất đặc biệt để được gọi là tài năng và quản lí đầy đủ cả nhóm Cự Nhật. Tính chất của Cự Môn chủ sự bất mãn, phản đối, luôn đẩy nhanh quá trình phát triển và uyên thâm hiểu rõ về các mặt. Sao Cự Môn chỉ cần Thái Dương hình thành Cự Nhật tức ngọn cờ giương lên. Cự Môn do am hiểu những vấn đề một cách sâu rộng nên luôn lục hội với Tử Vi. Cự Môn trở thành người đứng đầu bằng đa phần đưa tính phản kháng, bất mãn với lý tưởng của Tử Vi ra quần chúng. Ngay cả trong trường hợp lý tưởng của Tử Vi tốt đẹp, Việc xây dựng thì khó nhưng tìm cách phá phách của Phá Quân hay phản đối của Cự Môn thường được quần chúng ủng hộ hơn. Vì vậy, khi có vua Tử Vi mọi nơi luôn sinh ra kẻ phá phách là Phá Quân và làm phản là Cự Môn. Trường hợp nhỏ hơn là Tử Vi làm việc xây dựng một việc, Phá Quân phá hoại và Cự Môn làm phản. Cự Môn là ngôi sao tài năng, lại thường có được tất cả Tử Vi có nhờ lời nói. Cách Cự Nhật chủ lời nói được giương ra, công khai. Cự Môn và Thái Dương đồng cung tăng nặng tính chất công khai của cách này. Tốt là được nghe theo, hưởng ứng. Xấu là bị chê bai, ghét bỏ.



Do cách Cự Nhật cả ba cung quan trọng không có chính tinh tọa thủ nên tính biến đổi thất thường. Cách cung VCD có hung tinh độc thủ như Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp đặc biệt là Tuần Triệt lấy các sao này làm tính chất chính để luận. Thực ra đây là việc hiển nhiên khi tất cả cách cục cuối cùng chỉ quay về bản chất là sự biến đổi tính cách. Với Chính Tinh là tính cách ban đầu và phụ tinh như cành lá sai biệt muôn vẻ cho cái gốc. Với hung tinh độc thủ tại bản cung tính chất tác động mạnh không thua kém chính tinh. Như mệnh có Kình Dương ngay cả khi có Chính Tinh tính chất của Kình vẫn không thua kém, ít bị biến đổi ở đặc tính tranh đoạt, chống đối. Cự Nhật chủ sự phản đối cần thiết có Phượng Các, đặc biệt là bộ Tuế Phượng chủ cả thái độ của bản thân được sự tôn trọng và ngưỡng mộ. Cự Môn là sao cần thiết chuyển hóa thành Quyền khiến tính Ám thành ngầm. Các sao khác thích hợp như Thanh Long chủ danh tiêng, Quyền Khốc, bộ Khoa Quyền Lộc. Cự Nhật có cách cách trên chủ có được sự danh tiếng do lời nói mà thành. Cách này không mấy kị bộ Không Kiếp, trừ phi là Không Kiếp có Hỏa Linh. Đặc biệt với Kình Đà thích hợp với cách Cự Nhật.

Luận về sao Long Trì



Luận về sao Long Trì


Sao Long Trì thường được luận nằm trong bộ Tứ Linh Cái Hổ Phượng Long. Thực ra sao này chỉ luôn đi với Hoa Cái và Thái Tuế tức gặp cả bộ Tuế Hổ Phù. Nhìn chung cách Cái Hổ Phượng Long luôn có ba sao là Bạch Hổ, Hoa Cái và Long Trì nhưng Phượng Các là phần quan trọng đánh giá bộ Tứ Linh.
" Phượng Long nhan sắc khuynh thành, gia Hình ấy mặt lại thành rỗ hoa".
Khi Long Trì đi với Phượng Các hình thành đầy đủ cách Tứ Linh có ý nghĩa là sự cao quý, đáng tôn trọng của thái độ. Mệnh có bộ Long Phượng thường có sắc đẹp, nhất là khi đồng cung với Thiên Tướng càng rõ rệt. Cái đẹp của Long Phượng chủ sự cao quý, thanh tú có phần khác với vẻ đẹp của Đào Hồng. Câu phú trên chỉ việc có bộ Long Phượng ngộ Thiên Hình tức bộ Hình Diêu thì khuôn mặt dễ rỗ hoa, qua nghiệm lí thấy chưa hợp lí, có thể cần thiết đồng cung.
" Long Trì khoa đệ yểm Nhật Nguyệt nhi tử trệ kham ưu".
Mệnh hay Hạn có bộ Âm Dương ngộ Long Trì đồng cung thì gia tăng tính hãm, chủ bao vây, duy trì, khiến Âm Dương sáng khó có thể nổi lên được. Sao Long Trì chủ cái ao hoặc thành trì, sự bao vây, định kiến. Mệnh có Long Trì chủ sự thực hiện công việc có quan điểm với một lý do của Thái Tuế. Long Trì đồng cung với sao Quan Phù. Nhiều sách thường lầm lẫn gọi Long Trì thành chung của bộ Long Phượng. Cách Long Trì không có Phượng Các tính chất khác hoàn toàn với việc đủ bộ Long Phượng. Phượng Các và Long Trì an tại cung Mão Dậu là cách hay. Vì hai sao thay đổi vị trí như Long Trì cư Mão Dậu, khi đó Phượng Các cư Hợi Tị và ngược lại Long Trì cư Hợi Tị khi đó Phượng tại Mão Dậu.
" Phượng Long Mão Dậu đôi miền, vượng thì kim bảng chiếm tên ở đầu".
Đây là cách cục nổi danh của bộ Long Phượng, đúng cách khi Long Trì tại hai cung Mão Dậu. Khi đó Phượng Các đồng cung với Thái Tuế và đủ bộ Tứ Linh. Cách Thái Tuế và Phượng Các đồng cung chủ tư tưởng được hưởng ứng, thuộc cách nổi danh thật, được ngưỡng mộ vì tài năng thực sự vì Thái Tuế chủ sự thật trái với Thiên Hư tại đối cung. Long Trì và Phượng Các đồng cung ý nghĩa không được như vậy. Như việc cung Sửu Mùi có bộ Long Phượng đồng cung không hay như cách Long Phượng Mão Dậu. Vì vậy, không nên lý thuyết hóa việc Long Trì là cát tinh hay đài cát tinh mà Tứ Linh hay do sao Phượng Các và Thái Tuế. Như đã đề cập ở trên, Long Trì đi với Âm Dương là cách khồng hay, chủ sự nổi danh bị bao vây, kim nén. Nếu Long Trì ngộ Thái Dương hãm còn là cách bất toại lòng, không xứng ý suốt đời nếu không có cách cứu giải, nếu gia hung sát tinh chủ bị chết đuối ở ao hồ hay giếng, cũng là một cách thủy tai. Long Trì luôn đồng cung với Quan Phù chủ sự lên tiếng về thái đố, nếu xấu chủ không thể lên tiếng, xấu nhất là không còn mạng để lên tiếng. Nhìn chung khi luận sao Long Trì cần chú ý đến Thái Tuế tức cả bộ Tuế Hổ Phù có tính chất quan trọng ảnh hưởng mạnh tới cách cục.

May mắn khi sinh ra và trưởng thành



May mắn khi sinh ra và trưởng thành


Chúng ta đều có những sự theo đuổi theo từng tầng xã hội. Với tầng lớp nông dân, công nhân thì mong muốn được sung túc, giàu có đa phần như tầng lớp trung lưu. Và tầng lớp trung lưu luôn có tham vọng tiến tới tầng lớp giàu có. Tiếp theo là tầng lớp rất giàu có. Với tỉ lệ các cách bất hợp tại cung an Thân là nhiều và tại cung Mệnh vướng Sát Kỵ thì tỉ lệ mỗi người sinh ra được bình thường, rồi đầy đủ hơn để lên trên mạng xem lá số tử vi của chính mình là khó khăn. Đất nước ta do việc hậu quả chất độc, và chiến tranh hóa học khiến cho gần 7 triệu người bị tàn tật không bình thường tức khoảng 8% so với cả nước. Tỉ lệ trong thực tế là khoảng 1/12 người. Chưa kể từ sơ sinh tới lớn lên mắc các bệnh khác không bị tàn tật khoảng tổng cộng các bệnh là 1/8 người. Vì vậy, may mắn là được là một người bình thường, tốt hơn là có được dạy dỗ tốt, môi trường tốt. May mắn hơn nữa là có được gia sản cha mẹ tốt. Cuối cùng là sinh ra làm người kế nhiệm ngôi vị. Tất nhiên các tỉ lệ bắt đầu giảm dần và tới mức cuối chỉ còn rất rất nhỏ. Khi chiến tranh xảy ra và nước ta bị hứng chịu rất nhiều chất độc da cam. Đây là gốc để những lá số Tử Vi tuân theo sự phát triển. Nếu mệnh có cách khuyết thiếu cơ thể thường được bổ sung cho các trường hợp này. Gốc của một thứ gọi là độ số tùy thuộc vận của một quốc gia. Với việc trong nước ta đã phải trải qua biến cố liên quan tới việc những đứa trẻ sinh ra bị nhiễm chất độc hóa học. Vì vậy, các tính chất của nhóm sao thể hiện việc thân thể khuyết thiếu hay không bình thường từ cách cục không may mắn ấy. Tuy nhiên ở các nước Úc hay Niu Di Lân là khoảng 20%. Tức với vận nước của họ thì cứ 5 người sẽ có 1 người bị khuyết tật. Như vậy tỉ lệ của Tử Vi mô tả khác nhau do vận nước khác nhau và cách cục cần thiết ở mức tối thiếu cũng khác nhau. Sự may mắn của Thiên Lương có khi chỉ là được sống sót qua dịch hạch, qua nạn đói hay qua chiến tranh, giữ được tính mạng của mình trong khi đa phần đều phải tử mạng là cách tốt của Thiên Lương. Xét một người có cuộc sống bình thường ổn định không giàu có nhưng khỏe mạnh, không gặp biến cố lớn đau khổ trong cuộc đời tỉ lệ thật sự khiến chúng ta khó tin. Xét một người có lý tưởng cao đẹp, khả năng dẫn dắt quần chúng còn khó khăn hơn nữa. Sự thay đổi của vận nước khiến các cách cục có thể chuyển từ thượng cách về mức hạ cách. Đây là điều bình thường trong Tử Vi. Ngay cả xét với lí của người không may mắn như khiếm khuyết cơ thể cũng đa phần do cách nhìn của con người. Như tiên tri nù Vanga hay cụ Nguyễn Đình Chiểu bị mù. Nhà thơ Hàn Mặc Tử bị bệnh phong hoặc một giáo sư vật lí mới là Hawking bị liệt tứ chi. Cái danh tiếng như Thanh Long hay Phượng Các không bị sự khiếm khuyết trên thân thể gây ra sự cản trở thành công. Cách này do Mệnh và Hạn là  quan trọng chiếm yếu tố quyết định. Xét theo cách xấu thì việc xấu nhất khi hội họp cả Không Kiếp Kình Đà Hỏa Linh Hình Kỵ. Cách này gia cát tinh như Khôi Việt hay Tả Hữu càng mang họa lớn, như sự cố định nơi suy tưởng. Sinh ra bình thường là may mắn, được nuôi dưỡng đầy đủ là khá may mắn và được dư giả ở mức độ cho các hành động chi tiêu, được người bên ngoài xung quanh đánh giá cao về gia sản của người đó, thì thực tế việc cách may mắn ở mức dộ khá cao.

Thursday, February 23, 2017

Luận về Đại Tiểu Hao



Luận về Đại Hao và Tiểu Hao


Đại Hao và Tiểu Hao là hai sao thuộc nhóm Bại Tinh. Thuộc vòng sao Bác Sĩ. Đại Tiểu Hao thường gọi chung là Song Hao nhưng thực chất tính chất khác nhau hoàn toàn của hai sao này, cần tách biệt ra để tránh khỏi việc nhầm lẫn khi luận đoán. Song Hao thường có mặt trong các cách chú Phú và Quý. Bộ sao này luôn có Kình Dương hoặc Đà La tam hợp nên gọi là cách Kình Hao hoặc Đà Hao. Từ đó ta lại chia nhỏ ra các cách Kình Đại, Kình Tiểu, Đà Đại, Đà Tiểu. Mệnh có Song Hao lưu ý khác chỉ một sao như Đại Hao hoặc Tiểu Hao tam hợp.
" Lưỡng Hao thiết Kỵ ư Tài cung".
Cách này đề cập tới việc Đại hoặc Tiểu Hao tọa thủ tại cung Tài thì tiền vào ra thất thường, khó tụ nên khó giàu. Có người luận rằng lấy tiền đi đầu tư xoay vòng nên ít có tiền mặt là hiểu sai tính chất của bộ Song Hao. Lưu ý trường hợp Mệnh có Song Hao và Tài cung có Song Hao. Ở cung Tài Bạch có bộ Song Hao là cách tiêu tiền không có sự suy nghĩ tiết kiệm. Trường hợp này gọi là tán tài. Tài sản chính là những vật chất có giá trị, tiền là thứ tài sản có thể hoán đổi. Như một cách Song Hao cư Tài Phúc tức trường hợp tốt ta kiếm được nhiều tiền thuộc tầng lớp cao nhưng chi phí cho sinh hoạt, mua sắm, ăn uống mất gần hết khoản tiền, hơn nữa đa phần chi phí ấy là tiêu thụ ( Song Hao ) cho việc hưởng thụ Phúc Đức nên khó giàu. Khác với việc đầu tư, tích trữ như mua đi bán lại để tăng thêm lại là cách khác.


Tuy nhiên chỉ Song Hao cư Tài Phúc biến đổi tính chất khi ngộ Bàng Tinh, tùy trường hợp luận đoán. Không phải như một số người luận rằng ngày nay việc buôn bán trao đổi, xã hội hiện đại nên Song Hao cư Điền Tài thay đổi tính chất. Thời Phong Kiến hay trước đó thương nhân, tiểu thương buôn bán cũng lấy tiền mua vật phẩm rồi kiếm lợi chẳng phải như bản chất mua đi bán lại như bây giờ sao?.
" Lưỡng Hao Cự Vũ Hỏa Quyền, chiếu sai trấn thủ một phương bên ngoài".
Cách Cự Môn hoặc Vũ Khúc ngộ Song Hao gia Hỏa Quyền thường được trấn ải xa xứ. Cự Môn tối hỉ ngộ Song Hao, Cự Môn chủ sự phản đối, kháng cự, bất mãn cần thiết có Song Hao để thay đổi nhận thức cho phù hợp, Cự Môn kỵ gặp Lộc Tồn có tính ổn định luôn trong tình trạng tồn tại bất mãn. Cách Cự Môn chủ xa, Cự Nhật chủ rời xa. Có Quyền tức dễ theo binh nghiệp do hình thành cách Kình Hao hoặc Đà Hao ngộ Quyền. Cự Môn thích hợp với cả Đà La và Kình Dương.
" Cự Cơ Mão Dậu hạnh ngộ Song Hao uy quyền quán thế".
Cách này hay do Cự Cơ hay chủ thay đổi tốt, do Phá nhị hợp phá bỏ Tồn Tại xấu của Lộc Tồn ở bên ngoài, lại được Song Hao chủ thay đổi khiến Cự Môn giải quyết được bất mãn này đến bất mãn khác, thức đẩy sự tiến bộ, đây là cách thay đổi suy nghĩ để tạo chuyển biến tốt. Mệnh hoặc Hạn đến Cự Cơ ngộ Song Hao luôn có sự biến động lớn tại đây.

Luận về bộ Xương Khúc



Luận về tính chất bộ Xương Khúc


Cách Xương Khúc thủ mệnh hay hạn đều mang tính chất đặc biệt nếu hình thành cách Xương Khúc ngộ Kỵ. " Xương Khúc Kỷ Tân Nhâm sinh nhân hạn phùng La Võng tự đầu hà".
Ám chỉ nếu có Xương Khúc thủ Mệnh hay Hạn tuổi Kỷ, Tân và Nhâm tới cung Thìn Tuất thì tự vẫn hay gặp chuyện sông nước. Cách này liên quan tới bộ Xương Khúc Kỵ. Với tuổi Kỷ ta có Văn Khúc hóa thành Kỵ. Với tuổi Tân thì Văn Xương hóa Kỵ. Còn lại ở tuổi Nhâm. Tuổi này có Vũ Khúc hóa Kỵ. Nhưng điều quan trọng của tuổi Nhâm là sao Đà La nằm tại cung Tuất. Cách cục của tuổi Nhâm là Xương Khúc Đà ngộ La Võng. Cách cục của tuổi Tân là Xương Khúc Khoa Kỵ ngộ La Võng. Với tuổi Kỷ là Xương Khúc Kỵ ngộ La Võng. Thực chất trong bộ sao Xương Khúc có tính chất nghe lời trong sách vở. Trái nghịch với Cự Môn hay Kình Dương là ngôi sao chống đối, phản ứng. Xương Khúc ngộ Kỵ có La Võng tượng là do nghe theo mà mắc bẫy vu oan giá họa. Với Đà La cũng luận như vậy, vì Đà La cũng chủ sự nghe theo nghịch với Kình Dương. Đà La ngộ La Võng đã là một cách không hay. Vì vậy, tính chất của Xương Khúc cần luận tốt xấu tùy tình huống, không phải cứ cho là cát tinh giải được tính xấu của Sát Tinh. Nếu gặp cách Xương Khúc ngộ Đà Kiếp chủ tai họa càng nặng do nghe theo mà mắc nạn tai kiếp.
" Khúc Xương hãm Thiên Thương đồ lãng đãng, Liêm Trinh phùng Văn Quế cảnh bôn ba".
Bộ Xương Khúc ngộ Thiên Thương ở cung Nô Bộc tượng sự buồn bã khi bên ngoài xã hội mang đến cho bản thân. Cách này thường gặp đủ cả Xương Khúc Thương Sứ là Quế Sứ Hoa Thương cách, chỉ gặp tại hạn. Khi đó Mệnh hoặc Thiên Di gặp bộ Không Kiếp tức tai họa từ bên ngoài vào hoặc ngay bản thân. Sao Liêm Trinh là tù tinh, một số luận rằng Liêm Trinh kỵ gặp Xương Khúc chủ phấn cốt toái thi dịch là tai họa nặng nề. Cách Liêm Xương không luận cho tam hợp, vì ở hai cung có Vũ Khúc và Tử Vi hỉ kiến Xương Khúc. Liêm Trinh có Văn Xương đồng cung không phải là cách cục xấu mà có tính chất ương ngạnh, cương quyết làm bằng được việc muốn làm. Văn Xương chủ nghe theo, có tính Kim cũng chủ cương nghị. Liêm Trinh là sao có tính chất đường lối, đi với Văn Xương thường gặp gian khổ mà không ngại. Tuy nhiên cách này dễ gặp phản cục chủ cố chấp không soi xét, thiếu hiểu biết làm liều của Liêm mà gặp tai nạn, vô đạo đức, liêm chính nếu có Hình Kỵ.
" Văn Xương ngộ Liêm Trinh chỉ táng mệnh thiên niên". Bộ Xương Khúc cũng không ưa gặp Phá Quân.
" Xương Khúc ngộ Lưỡng Phá lâm hổ thố Sát Dương xung phá bôn ba"
Xương Khúc có tính ổn định nếu đắc cách, nếu bất hợp chủ sự khuyết điểm lớn về sự hiểu biết. Phá Quân kỵ gặp Xương Khúc vì chủ phá bỏ, thay đổi, đặc biệt có Thất Sát chủ quên, nhầm lẫn. Khi ngộ thêm Phá Toái tính chất này càng mạnh. Nếu gặp Kình Kiếp Sát chủ tranh đoạt, bị tranh đoạt khiến tâm phải chịu bôn ba lao lực. Về vị trí ở 12 cung do mỗi cung độ đều đã có thuộc tính riêng, không thể bỏ đi mà luận như nhau. Như cung Tị Hợi đa phần Chính Tinh nhập hãm, tính chất theo chiều hướng xấu. Với bộ Xương Khúc cũng vậy, chỉ bỏ khi cách cục thể hiện rõ ràng kết quả cát hung vì bàng tinh quan trọng hơn vị trí.

Lá số của vua Lê Lợi


Lá số của vua Lê Lợi



 Vì việc bát tự sinh thần của vua chúa thường không lộ ra để tránh việc sử dụng các môn huyền học mà kẻ khác nắm bắt được vận nước. Việc thường ghi chép tứ trụ của vua thường trong kinh sách mật. Cuốn Đại Việt Sử Ký Toàn Thư nêu rõ rằng vua sinh giờ Tí, ngày 6 tháng 8 năm Ất Sửu. Tức giờ Canh Tý, ngày Nhâm Tuất, tháng Ất Dậu, năm Ất Sửu. Chưa bàn tới việc tính xác thực hoàn toàn của lá số Tử Vi, tìm hiểu những tính chất của lá số này. Lê Lợi sinh ra giữa thời loạn lạc, quân Minh lấy cớ Hồ Quý Ly không hợp lòng dân mà lập nên triều đại nhà Hồ mà sang đánh nước ta khiến nhà Hồ thất bại mất nước. Tuy nhiên nhà Minh lại thực hiện chính sách đồng hóa người Việt, đốt phá những kinh sách về văn hóa của nước Việt, cũng chủ thi hành việc đem của cải, sức lực của ta làm giàu nên lòng dân oán hận. Lúc đó tàn dư của nhà Trần chiêu mộ kẻ sĩ nhưng Lê Lợi không đi theo mà tự thân đứng lên thu nhận kẻ khác. Nhà Minh kêu gọi quy phục nhưng không chấp nhận mà tự trốn trong rừng sâu, cày cuốc, đọc sách, chiêu mộ đủ loại từ kẻ có mưu trí hay kẻ có dũng khí. Trong Tử Vi là cách nhằm vào khi lý tưởng của Tử Vi trở nên vô đạo mà Cự Môn và Phá Quân đứng dậy để chống lại. Cự Môn ở đây mang tính Phản nhưng hợp quần chúng nên có thể thành công. Lê Lợi từng nói truyền lại " Ta cất công đánh giặc không có lòng ham muốn phú quý mà để ngàn năm về sau người đời biết ta không chịu làm tôi tớ cho giặc". Lý tưởng của Cự Môn, bất mãn và phản đối cách được hưởng ứng. Thực ra, phân định giữa Cự Môn và Tử Vi khó khăn. Hồ Quý Ly làm phản nhà Trần, nhà Minh sang xâm lược lấy danh nghĩa là đánh phản loạn. Kẻ nào nắm quần chúng là kẻ được ủng hộ. Trong lá số của Lê Lợi, có cách VCD có Cự Cơ xung chiếu. Tính chất nội Âm Dương Lương và ngoại là Cự Cơ Đồng. Mệnh hình thành cách VCD có Âm Dương chiếu, Tuế Hổ Phù ngộ Phượng Các có Quyền Khốc gia thêm Phi Phục Thanh và Hóa Kỵ. Hình thành tổ hợp Thanh Kỵ chủ sự mưu trí, danh tiếng với Tuế Phượng tức tư tưởng được ngưỡng mộ, thêm cách Quyền Khốc cũng được phê là Minh Danh Vụ Thế, về chính tinh cũng được nổi tiếng do cách Âm Dương chiếu tiếng đồn xa. Mệnh tạo chứa các cách nổi danh trên nên hai chữ Danh Tiếng gồm cả tiếng tốt và uế danh sẽ nhắc đến với bản mệnh này. Bên ngoài tức bộ Cự Cơ xung có cả bộ Song Lộc gia Hỏa Tinh có Không Kiếp tại Hợi, tức bất mãn luôn ám ảnh tồn tại. Lê Lợi đã rơi nhiều lần vào tình thế hiểm nghèo, nguy khốn nhưng vẫn đứng lên chiến đấu tới khi lý tưởng dẹp loạn thống nhất hoàn thành. Sử có chép lại sự giống nhau giữa hai cuộc đời và nét chính giữa Hán Cao Tổ và Lê Thái Tổ. Cả hai cuối cùng đều vấp phải sai lầm lưu lại uế danh khi giết hại trung thần như phú Tử Vi đã viết về bộ Không Kiếp.
" Không Kiếp Tị Hợi miếu vì, hoạch phát hoạch phá tựa thì sấm ran".

Hành vi tội ác và pháp luật



Hành vi tội ác và pháp luật


Trong khi nước ta phát triển mạnh về cả kinh tế và du nhập văn hóa thì việc giữ gìn các bản sắc truyền thống càng khó khăn hơn với mạng internet. Việc mở các mạng xã hội sau một thời gian chặn khiến mọi thông tin trở nên cập nhật thường xuyên. Một mặt tồn tại là vấn đề những vụ án giết người và hiếp dâm với hành vi không có nhân tính đàn xảy ra theo chiều hướng gia tăng. Trong Tử Vi sở dĩ tiền nhân luôn đặt vấn đề dâm lên mức độ cao vì rõ tính chất của dâm lấy từ Thủy Hỏa giao tế, bất dung hòa mà trường hợp này sinh ra ái lực có cả tính Sát phục ngâm bên trong. Khi Hỏa trỗi dậy nhưng Thủy không khắc mà đi theo nhau dẫn tới loạn. Như việc khi trong bình kín đun sôi nước dẫn tới khí thủy bốc lên, áp lực tăng liền tục và hỗn độn. Vì vậy, thường những cách cục mất nhân tính như các vụ án hiếp dâm nếu đối phương kháng cự bất ngờ hoặc sợ đối phương kháng cự thường do hàm tính Sát cực vượng do Thủy Hỏa giao sinh, vì vậy dẫn tới các sự việc giết hại bằng các hình thức như bóp cổ, đập đầu, dùng hung khí,... mà không có sự hối hận, cuồng loạn, thường mang Linh Tinh do chứa âm hàn và hỏa khiến Linh Tinh chủ sự lạnh lùng. Sau khi giết xong vẫn cần thỏa mãn dục vọng như loài súc vật. Vì vậy các vụ án thường thấy ghi việc ghê tởm với xác chết.


Xét trong Tử Vi nên Sát Tinh chỉ lấy Hỏa và Kim. Bắt đầu của việc này từ sự tham muốn sở hữu, tưởng thức hoạt động tưởng nhớ, tức ấn tượng cũ của bộ Tồn Ấn Bệnh về hành động và sự khoái lạc khi hành động, sau khi đã thành và bị bắt thường tạo ra lý do bệnh chính là ngôi sao Bệnh Phù, một nghĩa khác nữa là sự sỉ nhục. Vì vậy, không phải Lộc Tồn hay Quốc Ấn luôn cẩn trọng, là người hiền hậu như sách viết mà phải xem rõ các trường hợp. Thường kẻ phạm tội ác này có cách Sát Kỵ Hình tinh giao hội mang tính Sát lớn. Một số trường hợp khuôn mặt thư sinh, mắt vô thần do chứa cách Thiên Cơ ngộ Hỏa Linh Kỵ Hình Không Kiếp chủ do việc có những suy nghĩ quái đản. Bản thân cũng gặp một vài trường hợp. Trường hợp 1, có Thiên Cơ gia Kình Kỵ Hình Linh Việt có đầu óc không bình thường và đặc biệt đôi mắt vô thần, mới tiếp xúc thấy hiền lành, thông cảm nhưng thật sự trong tâm khảm như một kẻ khác. Vì vậy, có một số kẻ chết người ta thường nhận định là hiền lành mà chết là phải căn cứ thêm tính chất sâu bên trong, hạn chết thường do Sát Kỵ Hình Tinh nếu có thì Mệnh khó có thể là người tốt thật sự được. Tuy nhiên cũng có trường hợp bị Sát Tinh tác họa mà mạng vong.Trường hợp 2, do tính Sát của Sát Tinh dụng bởi tính cách khiến đúng cách sát nhân vì mục đích. Cách này thường khuôn mặt biểu hiện sự nguy hiểm, như việc lông mày rậm, mắt chứa sát, tam bạch hoặc tứ bạch sắc. Vì vậy, cần hiểu rõ thêm các tính chất của bản tính con người và cách gây họa để tránh việc không ngờ mà bị hại.

Wednesday, February 22, 2017

Nhận định một lá số tốt



Nhận định một lá số tốt


Con người thường đưa ra những định kiến riêng của mình vào các tác phẩm văn học hay những nhận xét của những khám phá khoa học. Nhà khoa học Galile khi khám phá ra việc trái đất quanh quanh mặt trời với câu nói " Dù sao trái đất vẫn quay" ở thời ấy bị xử tội chết với hệ thống các giáo phái Ki tô giáo. Khi đó họ cười giễu, chế nhạo ông. Sau đó không lâu cả thế giới lại phải tín phục bởi lí tưởng cao đẹp bảo vệ cái đúng đến không màng cái chết của ông. Một câu hỏi rằng nếu để các thầy tử vi khái quát luận bằng một câu phú hay trong một cuốn sách đề cập đến thì Mệnh này là tốt hay xấu. Vì mỗi con người có một lí tưởng riêng, có người nghĩ thọ là tốt nhất, có người nghĩ có phú quý là tốt nhất, có người nghĩ đóng góp xã hội là tốt nhất. Tuy nhiên, việc nổi tiếng thường gây ra sự chú ý và tốt xấu thường dành cho những người nổi tiếng. Tuy nhiên, đây là vấn đề của khoa học nhưng đa phần chúng ta ưa thích sự khen ngợi của số đông và thường không ưa sự chê bai. Một lá số tốt của Tử Vi tiền nhân hay xem xét thường ở tiêu chuẩn Tài, Quan, Di. Với Tào Tháo là cả một quá trình rất dài. Tào Tháo là một trong số ít nhân vật lịch sử Trung Quốc lưu lại uế danh trong hàng nghìn năm. Khi chế độ phong kiến sụp đổ thì tư tưởng của số đông người thay đổi, khiến nhìn nhận ông ta với cái nhìn khách quan hơn, thấy được mặt tài năng và ngưỡng mộ nhiều so với các thời kì trước. Tào Tháo được mệnh danh là gian hùm và dối trá. Thời niên thiếu được ghi lại chơi bời phóng đãng, đa mưu túc trí. Có một tích truyện kể về việc chú họ Tào Tung bị Tào Tháo bày mưu mắc bẫy khiến cha ông ta không tin tưởng lời nói. Lại bảo rằng chú không thích nên bày đặt nói như vậy. Tào Tháo thuở nhỏ đã hay tụ tập đám bạn quậy phá. Lớn lên thống nhất được thiên hạ phía Bắc nhưng xuống tới phía nam gặp thất bại.


Tuy nhiên lịch sử ghi lại cũng nhiều phần do tâm lí hoặc suy luận của từng nhóm người hoặc số đông các thời kì, khó là sự thật. Ngay cả trong thời nay khi một người thành công trong khó khăn thì tất cả những bài báo hay phương tiện đa phần nói lời hay ý đẹp, không rõ mà chuyện xấu cũng không ghi rõ hoặc xem như kỳ lạ, đáng biểu dương. Trong Tử Vi có cách cục " A man xuất thế do hữu Cự Kỵ Khốc Hình Thìn Tuất". Nhìn chung thuở nhỏ Tào Tháo được tư tưởng của Tào Tung và gia đình cũng phát theo nghiệp võ. Tùy mệnh tốt xấu mà phát triển hoặc bế tắc an phận. Bàn tới cung Hạn tại Thìn Tuất thuộc cách " Thìn Tuất ứng hiềm hãm Cự Môn". Do có cách Phượng Khốc nên có thể ở tuổi Dần Ngọ Tuất Thân Tý Thìn. Với Hóa Kỵ có thể tuổi Đinh có Cự Môn hóa Kỵ, tuổi Giáp có Thái Dương hóa Kỵ. Canh có Thiên Đồng hóa Kỵ, tuổi Kỷ có Khúc hóa Kỵ, tuổi Tân có Xương hóa Kỵ. Do hàng chi nên không phải tuổi Đinh, Kỷ, Tân. Vậy có Thiên Can là tuổi Canh, Giáp hoặc tuổi Kỷ. Do Hạn tạo có đặc tính của Hóa Kỵ nên thuộc năm Giáp. Hóa khí Lộc Quyền Khoa Kỵ là Liêm Phá Vũ Dương.  Vì vậy, nhìn chung cơ bản là cách Cự Kỵ có Phượng Khốc Hình và Thanh Long chả tuổi Giáp. Cách này do Thanh Long chủ danh tiếng, tai tiếng hay chiến tranh và hòa bình. Trong trường hợp này là việc phát động chuẩn bị chiến tranh, Cự Môn có Phượng Các có chúng tôn, tức kẻ đi theo. Vì vậy, nếu đây là hạn khởi binh rất hay vì có bộ Cự Binh ngộ Phượng Khốc Hình nhập La Võng. Nếu có người tới hạn này tự sát hay khó khăn thì có người tới hạn này lại tốt. Tất cả phải xét thêm sự hợp hay không với Mệnh. Lá số tốt là cung Mệnh Thân phải tốt thứ tới hạn hợp cách, không cần thiết tất cả đều tốt đẹp như vậy hung sát tập trung dễ đáo hạn mạng vong.

Nghề nghiệp và sự thành bại



Nghề nghiệp và sự thành bại


Việc nghề nghiệp của mỗi người là phần quan trọng thứ hai sau những thứ thiết yếu cơ bản. Nghề nghiệp là nguồn cung cấp cả công danh và tiền bạc. Việc lựa chọn nghề nghiệp cũng đa phần cần xem xét bởi vấn đề thích hợp và khả năng thiên bẩm của mỗi người. Có người thích hợp với kinh doanh, có người ưa chính trị, có người lại thích làm bác sĩ, xây dựng,... Nghề nghiệp là một phần không ai thiếu trong cuộc sống, nếu không chỉ là một giai đoạn trong cuộc đời người bình thường. Nếu không quá khắt khe có thể gọi nghề nghiệp là công việc. Thông thường chúng ta luôn có những hướng đi theo chỉ dẫn của bản tính. Người có tính tranh cãi, phản đối thường làm luật sư, hoặc liên quan đến hình pháp. Một người lựa chọn bước tiến đầu đời tức công việc của mình theo xu hướng của thời đại, lời khuyên của mọi người, sở thích tại hạn, hoặc đơn giản để tùy duyên tới. Một lá số Tử Vi có nhiều tính cách ẩn trong Mệnh tạo, những cá tính ấy tùy hạn phát sinh kết hợp với môi trường xã hội khiến bản thân chọn công việc, nhưng điều đáng bàn là nhiều khi chọn phải những nghề nghiệp mà nhìn trong lá số hướng đó không có lợi ích, hoặc gặp tai họa. Như mệnh cách có một hướng là Mã Hình Kình Linh Kiếp nhưng ta sinh ra chân tau không có vấn đề, đến hạn kích phát ta thích nghề vận chuyển nên ta lựa chọn nhưng bản Mệnh nói rằng nếu chọn nghề này có tính di động cao ta khó có thể tránh khỏi tai kiếp nguy hiểm tới cả tính mạng. Hoặc như trường hợp Việt Linh Hình Kỵ Quyền ta lựa chọn nghề cơ khí, điện thì khó tránh khỏi tai nạn. Nếu trường hợp này đi theo hướng là đại diện cho một doanh nghiệp hay một công ty. Hoặc ngay chính tay tùy vào điều kiện tự mở một cơ sở hoạt động nhỏ, nếu đến hạn tốt hay Mệnh có thêm cát tinh thì sớm hoạch phát, mở rộng tạo uy tín, cũng là cách tự gây dựng nên thương hiệu cho chính mình bởi được cách Kỵ Linh Quyền chủ sự uy tín lớn, có Thiên Việt là cách khởi đâu. Cách này chủ đạt được sự thành công.


 Những cách cục này khác với thời xưa của tiền nhân, phải tự kiểm chứng bởi nghiệm lí. Cũng như cách tốt đẹp là Lộc Tồn ngộ Thiên Hư sách phê rằng hư hoa cách, chủ tiền bạc sớm có chiều mất, nhưng bây giờ thì việc tiền ảo không có vật chất thật hiện hữu. Nếu chọn nghề liên quan tới công việc tiền bạc ảo tốt đẹp hơn nghề khác. Các cách hung sát kỵ thường tốt đẹp hơn thì theo binh nghiệp, tham gia lực lượng quân đội, công an được hưởng chữ Quyền trong từ quyền lợi, uy tín. Nếu xấu hơn và tùy theo lựa chọn thì cũng ưa làm công việc bảo vệ, kinh doanh trái pháp luật, hạn xấu thì Sát Tinh hóa thành hung khí, chủ sự thương tích, xấu hơn thì mệnh vong vì Sát. Cũng cách đó nhưng có kẻ lựa chọn chiến đấu trên thương trường kinh doanh, tất nhiên là với cách cục tốt hơn sẽ nhận được lợi nhiều hơn và khi hạn xấu nhất cũng không đến mức mạng vong, tệ nhất là bị phá sản, nợ nần nhiều. Nhiều cách để lựa chọn nghề nghiệp, Sát Tinh thường quyết đoán, mưu kế, lạnh lùng nên dễ hoạch phát phù hợp các công việc có sự mạo hiểm và lợi nhuận lớn nếu cách cục tốt. Với cát tinh thì thường các công việc ổn định.

Ung thư và bệnh nan y trong Tử Vi



Ung thư và bệnh nan y trong Tử Vi


Bệnh ung thư nói riêng hay các bệnh nan y khác như tim mạch, tiểu đường, suy giảm miễn dich HIV, viêm gan B,... rất nhiều đang ảnh hưởng tới mỗi người chúng ta. Có điều các sách Tử Vi hiện nay ít đề cập tới là việc các bệnh này đa phần lại không liên quan tới các sao chủ bệnh tật đi theo mà đa phần thể hiện các cách chết. Nhiều trường hợp thuộc cách đồng chung cảnh ngộ như những ngôi làng bị ô nhiễm nguồn nước, môi trường. Việc sinh tử không chỉ nằm ở lá số Tử Vi mà như đã đề cập còn ở tính thời vận của thế giới, quốc gia, địa phương . Minh chứng đơn giản nhất khi bệnh dịch hạch khiến chết 2/3 dân số của Châu Âu thời bấy giờ. Trong các cuộc chiến tranh lớn cũng tương tự. Tuy nhiên nếu không mang tính quyết định và tầm của quốc gia thì việc luận đoán Tử Vi đặc biệt về khả năng dự đoán về tính cách, đi liền với tai họa tức là nhịp độ trong một đời người. Trong khi thực phẩm bẩn từ Trung Quốc tràn về, các chất thải từ các nhà máy là nguyên nhân chủ yếu khiến bệnh tật phát triển. Bệnh ung thư là do chính cơ thể bị biến đối tạo nên, ung thư có tính độc vì làm chết các vị trí và quan trọng hơn là xâm chiếm để tự phát triển. Cách cục bị ung thư hay các bệnh khác chủ yếu do việc hành khí đã suy yếu, sắp đến giai đoạn tuyệt.


Nếu Mệnh số có hai sao Thiên Đồng và Thiên Lương chủ bất phạ tai ương, ngay cả khi đông cung tại Dần Thân gia cát tuy nhiên tới hạn tuyệt khí vẫn mạng vong vì một lí do không bệnh tật thì tai nạn, qua quá trình lão tới tử. Xét tới khí tuyệt của mệnh số do môi trường là chủ yếu, nếu khí của châu thiên hạ lớn như việc xảy ra phụ thuộc vào vận thiên hạ. Bệnh ung thư cần thiết có Không Kiếp, Hóa Kỵ chủ sự khác thường trong cơ thể. Hiện nay, việc Trung Quốc sản xuất hàng giả, hàng độc hại tiêu thụ tại nước ta làm nơi chủ yếu, không chỉ thực phẩm mà ngay cả những thứ cần thiết cho việc tạo thực phẩm độc hại như thuốc kháng sinh, thuốc trừ sâu, thuốc bảo quản, các loại kích thích,... khiến mỗi một món trên bàn ăn đều có chất độc mỗi ngày tích lũy kết hợp với môi trường khiến bệnh tật của con người rất nhiều. Tất nhiên những thứ ô nhiễm hay thực phẩm bẩn cũng do con người mà tạo ra, tất cả đều mang khí Sát của Hung Sát tinh, vì tư tưởng trước khi hành động luôn suy xét việc kết quả nhưng Hung Sát tinh quyết đoán, tìm được lí tưởng, lý do bao biện. Ví như khi sản xuất thực phẩm giả biết gây hại nhưng vẫn thực hiện vì lợi nhuận,  lối sống không lành mạnh góp phần khiến bệnh tật nhiều hơn. Mỗi năm khoảng 150 nghìn người ung thư, khoảng 120 nghìn người chết tim mạch, mắc bệnh lao là khoảng 100 nghìn người. Chưa kể các bệnh khác như tiểu đường, suy gan, hiv,... với khoảng 500 nghìn người mỗi năm thì trong vòng 10 năm chết khoảng 5 triệu người riêng các bệnh này. Khi sống vui vẻ, hối hả đa phần không nhận ra nguy hiểm tiềm ẩn từ việc bệnh tật, đến lúc bị thì số ai khổ thì người ấy chịu. Tử vi có thể dự đoán một phần chính là lối sống, tính cách. Một phần cũng quan trọng là những thứ bên ngoài tại nơi sống như nguồn nước, không khí, thức ăn tại địa phương không thể luận ra. Vì vậy, trước khi luận số tử vi người viết thường quan trọng hơn cả việc địa lí sinh sống hiện tại và quá khứ. Ung thư nếu gọi là bệnh nhưng không lây lan, đây chính là sai sót, mặt khuyết điểm của cơ thể, khi không đương cự được thì sinh ra không kiểm soát được gây ra bộ ung thư. Bộ sao này thường có trong cách Tử Phủ Vũ Tướng ngộ Không Kiếp sát tinh mà không có Thanh Long. Trong Tử Vi, khi có Vũ Khúc ngộ Tồn Kiếp, có thể là Vũ Tướng hoặc nặng hơn là Vũ Phá, Vũ Sát là hình ảnh của ung thư, tùy gia thêm Sát Tinh như Linh Hỏa Kình Đà Hình Kỵ, hoặc Thân cư tại Thất Sát càng chính xác. Tuy nhiên có thể chỉ là khối u, mổ ruột thừa, cắt amidan, hay ung thư giai đoạn đầu nếu bộ sao trên có cứu giải.



Tuesday, February 21, 2017

Cát tinh đắc địa tầm thường sự nghiệp



Cát tinh đắc địa tầm thường sự nghiệp


Trong các bài trước người viết có luận về cách bạo phát do hung tinh đắc cách. Nhiều câu phú cũng nêu lên cách liên quan tới việc " Hung tinh đắc địa phát dã như lôi. Cát tinh đắc địa tầm thường sự nghiệp". Câu phú này nhằm cho người nghiên cứu tử vi không quá lo sợ trước cách cục Hung Sát Tinh và thực chất hung tinh đắc cách bạo phát rất lớn. Nhưng thực tế liệu việc cát tinh đắc địa có phải tầm thường sự nghiệp?. Cát Tinh trong tử vi định nghĩa các sao đa phần có tính chất tốt đẹp, ít xảy ra các trường hợp tai họa khi không giao hội với Sát Kỵ. Lục cát tinh là Xương Khúc Tả Hữu Khôi Việt. Các bàng tinh như Long Phượng Hổ Cái, Đào Hồng Hỉ, Lộc Tồn, Tam Hóa,.. đến các chính tinh thuộc văn đoàn như Cơ Nguyệt Đồng Lương hay Phủ Tướng cũng thuộc cát tinh. Tuy nhiên thường Tử Vi nhắc tới cát tinh là Lục Cát Tinh. Trong trường hợp câu phú này đa phần nhắc tới cách này. Một số giải thích cho thêm bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương vào. Nhìn với tính chất của Lục Cát Tinh, ta có các câu phú sau.
" Khúc Xương nhập mệnh thanh tú nhã chi lang".
" Xương Khúc nhập mệnh thân tài danh quán thế".
Bộ Xương Khúc có rất nhiều tính chất, cơ bản chủ sự hiểu biết, ảnh hưởng bởi tính hoàn mỹ, thanh mảnh và nghệ thuật. Khi nhập Mệnh đa phần việc gian khổ cũng tìm thấy niềm vui trong đó, có Xương Khúc tốt đẹp cuộc sống đa phần lấy khổ làm vui, tìm cái thú trong khó khăn nên gọi là hơn người. Xương Khúc cũng là sao của học thức, sách vở.
" Khôi Tinh lâm Mệnh vị liệt tam thai".
" Khôi Việt nhập Thân ư gia quốc tất vi nhân trưởng".
Bộ Khôi Việt là hai sao chủ tính quý, Thiên Việt chủ sự khởi đầu, tức bắt đầu gánh vác từ đôi vai, Thiên Việt tượng là hai vai. Thiên Khôi chủ sự to lớn, tượng là đầu. Bộ Khôi Việt do là hai sao tăng giá trị nên thường cứu nguy cho cách cục hãm.
Việc cát tinh đắc địa tầm thường sự nghiệp nên sửa lại thành bình thường sự nghiệp, nếu luận tầm thường chỉ là muốn tôn lên vế trước của Hung Tinh khi đắc địa. Cũng như các câu phú về Khôi Việt, Xương Khúc trên có phần tăng thái quá về giá trị của sao. Chỉ được như vậy khi thỏa mãn rất nhiều yếu tố. Việc Hung Tinh hoạch phát là điều đúng đắn, và nếu hợp cách thành công hơn cát tinh rất nhiều lần vì thường lấy khí sát chủ quyết đoán, vượt qúa tính chất làm động lực. Tuy nhiên cần hiểu rõ Hung Tinh luôn có hai mặt, nếu muốn sống cuộc sống yên ổn khi đã trải qua quá nhiều thăng trầm thì không nên có nhiều hung sát tinh tại Mệnh hay Hạn. Cách này cũng giống như văn đoàn Cơ Nguyệt Đồng Lương và Phủ Tướng với các nhóm sao còn lại. Bạn chỉ muốn được yên ổn khi tai họa kéo đến liên hoàn, bất ngờ không thể chống đỡ nổi. Liên quan tới Sát Tinh và đặc tính Sát nếu có cách cục xấu cần tránh xa việc gia tăng Sát do môi trường nghề nghiệp mưu sinh quyết định. Môi trường đóng góp phần lớn vào tư tưởng khiến ta chọn theo con đường nghề nghiệp gây họa hay được thành công. Có những tai họa rất thương cảm của số phận.

http://m.dantri.com.vn/tam-long-nhan-ai/chong-chi-khong-con-nua-chi-cung-sap-chet-roi-em-oi--20170221071328081.htm

http://m.dantri.com.vn/tam-long-nhan-ai/hai-con-bo-vo-khi-cha-tai-nan-liet-giuong-me-bi-benh-mau-trang-20170216073557189.htm

Khi sống trong suy nghĩ ham muốn, vòng xoáy của xây dựng công danh thì thường quên đi cuộc sống thực sự là không tai họa, cảm thấy thỏa mãn ở mức độ vừa đủ. Sát Tinh có lợi khi hợp cách nhưng mang tính phản khi đáo hạn xấu. Nhiều kẻ đang giàu có mắc vào vòng tù, kể cả người giàu nhất nhì thế giới như chủ công ty Samsung. Có người chết bệnh tật nan y, báo đài tivi hiện đại đăng lên kết nối rất nhiều trường hợp. Bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương chỉ bình thường trong mọi sự, nhưng nếu có Phúc tức Thiên Đồng từ thiện, chăm lo cộng đồng, xã hội, có may mắn và Thọ tức Thiên Lương chủ lương tâm, đạo đức và cuộc sống êm đềm, hưởng thụ không có Sát Kỵ thì thiết nghĩ vẫn có nhiều người chọn hoạch phát dù phải chịu kết quả hoạch phá, tai họa hơn là cuộc sống bình dị.

Một số thiên can và tứ hóa



Một số Thiên Can và Tứ Hóa


Tứ Hóa được an theo Thiên Can, là hóa khí của Chính Tinh tùy từng tính chất ban đầu mà ra các khí Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Kỵ. Trong tử vi có 14 chính tinh và 4 phụ tinh là Tả Hữu Xương Khúc có hóa khí. Trong các chính tinh có các sao Thiên Tướng, Thiên Phủ, Thất Sát là không có hóa khí. Điều đáng bàn đến rằng các chính tinh không hóa khí hết mà chỉ có một số, có sao hóa ra cả Tứ Hóa, có sao lại không thể Hóa Khí. Với phụ tinh, bộ sao Tả Hữu chỉ hóa thành Khoa, với bộ Xương Khúc có thể Hóa Khoa và Hóa Kỵ. Nhìn chung, nếu giải thích bằng các cách ngũ hành hay tinh tượng có nhiều thuyết giải thích. Bản thân người viết chỉ thử nghiệm cách an các sao Hóa cho chính tinh hay phụ tinh của các thiên can có thực sự chính xác và ý nghĩa của các hóa khí theo các Chính Tinh khác nhau. Trên lá số Tử Vi luôn xuất hiện bộ Tứ Hóa tại các cung, không phải ở tại cường cung hay hơn nhược cung, mà việc phân bổ Tứ Hóa có thực sự hợp cách. Cát Tinh không hợp cũng vô dụng, hung tinh hợp cách thì quyền sát phạt uy lực. Vì nhìn Tứ Hóa tức nhìn bố cục của Chính Tinh, hai sao Xương Khúc và Tả Hữu cũng rất quan trọng tạo nên tính cách ban đầu. Với tuổi Giáp có Tứ hóa là Liêm Phá Vũ Dương theo thứ tự Lộc Quyền Khoa Kỵ. Thái Dương hóa thành Kỵ, Liêm Trinh thành Lộc, Phá Quân thành Quyền và Vũ Khúc thành Khoa, thì bố cục Chính Tinh có sự thay đổi về tính chất ban đầu. Tứ Hóa làm mặt tính chất cơ bản của Chính Tinh tăng lên theo hóa khí. Khi Thái Dương hoá thành Kỵ, các tính chất cơ bản bị cản trở, biến thành khuyết điểm. Các Thiên Can thực chất cũng là những khí ngũ hành phân làm hai nửa Âm Dương như Mộc gồm Giáp- Ất, Hỏa gồm Bính- Đinh, Thổ gồm Mậu- Kỷ, Thủy gồm Nhâm- Quý, Kim gồm Canh- Tân. Các Thiên Can theo năm tác động tới tính cách của con người theo nguyên lí Tứ Trụ tức Giờ- Ngày- Tháng- Năm. Lộc Tồn lấy từ vòng Trường Sinh chu trình của Thiên Can, can Dương thì xếp tại địa bàn cung Tạp khí, can Âm thì xếp tại cung thuần khí. Như Đinh thuộc Âm Hỏa lấy Lộc Tồn tại cung Ngọ, Bính thuộc Dương Hỏa an tại cung Tị, các khí khác cũng như vậy, ngũ hành Thổ an như tại Hỏa. Khôi Việt lấy từ sự hợp hóa của Thiên Can hữu tình mà an theo. Với Tứ Hóa thì lấy của Thiên Can và Chính Tinh tức đủ cả dữ kiện của Tứ Trụ nên sức ảnh hưởng rất lớn tới Mệnh cục.



Với tuổi Đinh nếu đủ bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương thuộc văn đoàn thì có được cả bộ Khoa Quyền Lộc. Nếu tuổi Giáp nếu có nhóm Tử Vũ Liêm được bộ Khoa Lộc, nếu giao hội Sát Phá Tham và Tử Vũ Liêm được bộ Khoa Quyền Lộc. Với tuổi Ất nếu được bộ Cơ Lương thì có Quyền Lộc, tuy nhiên cách này luôn có bộ Cơ Đồng phối hợp Âm Lương nên cách Quyền Lộc Kỵ. Với tuổi Bính ta có bộ Cơ Đồng thuộc Cơ Nguyệt Đồng Lương sẽ được bộ Quyền Lộc, nếu có Xương được tam hóa. Với tuổi Mậu khó đạt được nhị hóa, cần thiết có Hữu Bật. Với tuổi Kỷ khó đạt được nhị hóa, cần giao hội Tử Vũ Liêm và Sát Phá Tham. Với tuổi Canh nếu có Nhật Nguyệt được bộ Khoa Lộc. Với tuổi Tân có bộ Cự Nhật sẽ được Quyền Lộc, nếu có thêm Khúc thêm Khoa, dễ có Xương thêm Kỵ. Với tuổi Nhâm khó được nhị hoá cần thiết có Tả Phụ được Khoa. Với tuổi Quý khó được bộ nhị hóa. Vậy xét theo 10 Thiên Can, tuổi Đinh, Giáp, Bính, Tân có thể được Tam Hóa. Trong đó một cách khi bộ Tử Vũ Liêm rối loạn với Sát Phá Tham của tuổi Giáp. Hai cách Cơ Nguyệt Đồng Lương của tuổi Bính Đinh. Tuổi Tân dành cho bộ Cự Nhật. Nhìn chung tỉ lệ đạt tam hóa khó khăn, không tính trường hợp xung chiếu không thành cách luận khác.

Monday, February 20, 2017

Sai lầm khi nhắc tới phú cách





Sai lầm khi nhắc tới phú cách


Trong Tử Vi phân việc Phú, Quý, Thọ làm ba trường hợp riêng rẽ. Cả ba yếu tố này so với con người đều là quý báu. Có người quan trọng nhất là địa vị công danh, có người quan trọng nhất là chuyện tiền của, có người quan trọng nhất việc sống thọ. Thực ra con người thì việc sống là quan trọng nhất, đến khi sắp chết mới thấy cuộc sống có ý nghĩa dường nào. Của cải sáng có đến chiều có thể không còn có ý nghĩa với bản thân do rất nhiều trường hợp như bị bệnh nan y, do biến động về cơ chế khiến kẻ giàu trở nên trắng tay, do đổ vỡ những việc làm phi pháp. Công danh cũng vậy, ngay sáng mới được vinh danh khắp cả nước đến chiều trở thành uế danh do có kẻ dèm pha, nghi ngờ, có kẻ khám phá rằng ta không xứng đáng. Nếu còn sống bạn có thể còn làm ra tiền và rất nhiều tiền nếu bạn không cần thiết mạng sống mà đặt tiền bạc lên hàng đầu. Vì cuộc sống luôn không cho không nên người có số Thọ lại khó giàu có và địa vị, hoặc các trường hợp ngược lại. Thường thì ai cũng mong có cả ba thứ để dương oai với đời. Theo Tử Vi thì vòng tròn địa chi luôn chuyển động kể cả khi ta đã chết, luôn bắt đầu một sự sinh trưởng mới của chính bản mệnh của ta. Vòng Trường Sinh cũng chỉ rõ như vậy, cũng huyền diệu như ngày nay bản thân người viết có đọc một số bài báo viết về các hạt ảo mà sinh ta được vật chất, trong cái hư không lại sinh ra được cái có. Vậy mà vòng trường sinh đã áp dụng nguyên lí ấy từ lâu đời nay. Khi con người chú tâm vào một việc sẽ đạt được sự thành tựu khó tin. Phú Cách của Tử Vi là cách cục của sự giàu có. Hơn hết khi luận về Mệnh có Tài Tinh rồi đoán số giàu có là sai lâm cơ bản và hay gặp nhất trong khi luận giải tử vi.



Trong tử vi cái tư tưởng giàu có mới sinh ra được sự giàu có, bằng không thì có từ cha mẹ, có từ may mắn về những thứ vật chất khác có giá trị. Và việc giàu có cũng khó đoán chia làm các thời hạn. Như ông tướng của Lybia là Gaddafi nhờ đảo chính lật đổ vua Lybia mà có khoản tiền đen tới vài chục tỉ đô la mỹ. Như vậy, đây có phải thuộc phú cách hay không?, và có sao giàu hay không?. Các sao chủ tài cách luôn phải nhìn sâu tính chất của chúng. Như Lộc Tồn là việc tích tụ của cải, vật chất. Là có thể từ thời tổ tiên, ông cha để lại. Như Vũ Khúc là sao chủ tiền bạc do tính quý giá mang lại. Từ Quan Lộc có thể sinh ra tiền bạc và từ Tài Bạch có thể sinh ra công danh. Vì vậy từ tư tưởng là Mệnh tới tiền bạc, vật chất là Tài Bạch và công danh là Quan Lộc luôn liên quan với nhau. Sai lầm khi không nhận ra Tài Cách khi cung Quan nhập vượng, cũng sai lầm vì chỉ tập tung luận vào các sao chủ Tài. Như cách Tham Hỏa tức là tư tưởng tham lam, muốn vật chất nên ham muốn tiền bạc để trao đổi vật chất rất mạnh, khiến Sát Phá Tham chuyển hướng thành tài cách, đây cũng chuyển thành quý cách chủ từ công việc, danh sinh ra lợi tức tiền bạc. Có rất nhiều cách cục chủ tiền bạc hay hơn cách Song Lộc. Bất kỳ thời đại kẻ đứng đầu, có quyền trong xã hội sẽ dễ dàng được tài nguyên, tiền bạc. Thời phong kiến là vua chúa thu tiền bạc từ dân chúng, thời tư sản là người chủ xí nghiệp thu vật chất từ công lao động của người làm. Cần hiểu rõ tính tiền bạc hay phú cách là cách cục của Vật Chất. Tất nhiên là vật chất có giá trị có thể trao đổi, thông hành thường gọi là tiền, vàng. Vậy rất nhiều nguồn để có thể trở thành Phú Cách, có thể từ cơ hội, từ danh dụm, từ tổ tiên, từ may mắn, từ công danh, từ nhà cửa, từ tình duyên, đặc biệt có trường hợp từ ảo thành thật rất li kỳ,... nhiều khi khó hiểu khi một Hóa Kỵ cư cung Tài trở nên giàu có hạng nhất, không phải do Kỵ là cản trở, mà do sự khác biệt của Hóa Kỵ để không đi theo đa số mà lấy lợi.

Văn đoàn cách và bạo phát



Văn đoàn cách và bạo phát


Văn đoàn là nhóm sao Cơ Nguyệt Đồng Lương. Đây là bộ sao được phê Lại Nhân.
" Cơ Nguyệt Đồng Lương tác lại nhân".
Ý nghĩa của từ Lại Nhân, đây chỉ sự giúp việc cho người chủ trì, tùy theo cấp bậc nhưng khó có thể là người đứng đầu trong một tổ chức. Trong các nhóm sao như Sát Phá Tham, Tử Vũ Liêm, Phủ Tướng, Cự Nhật và Cơ Nguyệt Đồng Lương. Nhóm văn đoàn đặc tính ban đầu trong kết cấu Chính Tinh không thể hiện rõ tính lãnh đạo, đứng đầu như các nhóm sao còn lại. Như nhóm Sát Phá Tham có Phá Quân. Nhóm Tử Vũ Liêm có sao Tử Vi. Nhóm Cự Nhật có sao Cự Môn và nhóm Phủ Tướng yếu hơn có Thiên Phủ là sao chủ quản lí. Vì vậy, văn đoàn được coi là nhóm sao chủ hưởng thụ, chủ nghệ thuật và văn giấy nhiều hơn. Đây là tính chất ban đầu, tức chỉ xét trường hợp có nhóm sao này. Tất nhiên, khi bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương giao hội với nhóm Cự Nhật hoặc bàng tinh trợ giúp, hay hạn tới các sao chủ đứng đầu vẫn có thể trở thành người cao nhất của một tổ chức. Nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương có thể chia nhỏ thành hai bộ nhỏ hơn là Âm Lương và Cơ Đồng. Hai nhóm sao này đều có âm tính,nhu thuận. Cách Âm Lương chủ sự may mắn âm thầm, được che chở. Cách Cơ Đồng là nhóm sao chủ cá nhân và cộng đồng, cơ hội và nắm bắt. Trong trường hợp cách Cơ Nguyệt Đồng Lương làm vua khi có thêm các bàng tinh hay chính tinh chủ đứng đầu như Kình Dương, Thiên Khôi, Cự Môn, Thái Dương. Và xét trường hợp của bạo phát cách không thể thiếu các Sát Tinh tọa thủ tại bản cung hoặc tam hợp. Bộ sao Không Kiếp, Hỏa Linh, Kình Đà, Hình Kỵ đều có thể trở thành trợ lực cho nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương, tuy nhiên được có nhưng mất nhiều, bộ sao này từ hưởng phúc, hiền hòa trở thành khổ cực khó nhọc để duy trì, điều hướng Sát Tinh trở nên hoạch phát. Như cách Đồng Lương cư Dần Thân.
" Đồng Lương viên ngộ Khôi Quyền, tăng phùng Linh Kỵ giao lại Song Lộc hoạch dị phú cường".
Bộ sao này có ý nghĩa về phú và cả quý cách. Đồng Lương cư Dần Thân tức đủ bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương không giao hội với Thái Dương và Cự Môn, ngộ được Thiên Khôi chủ đứng đầu. Cách Quyền Linh Kỵ là cách được ban mệnh lệnh cấm cấp thiết, tất cả phải tuân theo, nếu trong chiến sự là cách giương lá cờ của một phe lên, chủ trong trường hộ này có Thiên Khôi chính ta là kẻ đứng đầu. Bộ Đồng Lương ngộ cách Khôi Quyền Linh Kỵ chủ doanh thương có thương hiệu riêng, danh tiếng khả năng đưa ra các nguyên tắc chung, gặp Đồng Lương chủ may mắn và phúc thọ, phục vụ cho cộng đồng. Cách này được cả Phú Quý và Thọ. Tất nhiên phải có sự giao hội của Sát Kỵ tức bộ Linh Kỵ. Nhóm Cơ Nguyệt Đồng Lương có khả năng chuyển hóa Sát Tinh nhờ may mắn nên dù gặp trường hợp xấu cũng không tới mức phản cục mà mạng vong. Một trường hợp phi thường cách là Thiên Đồng cư Tuất, tuổi Đinh là rất tốt đẹp.
" THIÊN ĐỒNG TUẤT CUNG HÓA KỴ ĐINH NHÂN NGỘ MỆNH PHẢN VI GIAI".
Đây là cách ngộ Hóa Kỵ với Thiên Đồng ở vị trí xấu nhập La Võng, đối cung bị Cự Môn xung rất ngại với cách " THÌN TUẤT ỨNG HIỀM HÃM CỰ MÔN". Mệnh cung có cách Cự Kỵ cư Thìn xung là xấu chủ bị tai tiếng bên ngoài mang vào. Tuy nhiên, tuổi Đinh được hưởng cả bộ Tam Hóa với Hóa Quyền thủ mệnh, có bộ Lộc Tồn Ấn Bệnh hình thành cách Tam Hóa ngộ Lộc Ấn, Mệnh giáp bộ Khôi Việt là cách giáp rất đáng ghi nhớ. Nhìn chung Mệnh được Tứ Hóa và Song Lộc Khôi Việt giáp. Tuy nhiên, Hóa Kỵ tại đây hay bởi được Thanh Long hình thành cách Long Kỵ ngộ Cự là cách danh tiếng lớn, do Long cư Thìn cung có Thiên La khiến việc truyền miệng trở nên càng hay hơn. Như việc ta hay gặp một lời khen tính dũng cảm từ câu chuyện có thật qua người này đến người khác cuối cùng lưu truyền thành thần thánh hóa. Thanh Long chủ danh vọng, do đó khi ở vị trí Thiên La rất cần thiết. Cách này là Cơ Nguyệt Đồng Lương nhưng Thiên Đồng còn nhập vị trí xấu, hãm phản cách trở thành phi thường. Còn có trường hợp Đồng Lương cư Dần Thân ngộ Không Kiếp gia Khôi Việt Khoa Quyền hoạch phát như lôi, cách cục này dễ lên nhưng cũng nhanh xuống nếu sang hạn xấu.

Luận tổng quan Phá Quân thủ Mệnh phần 1



Phá Quân tọa thủ cung Mệnh
( Phần 1)


Phá Quân là ngôi sao chỉ huy của nhóm Sát Phá Than, thuộc tính hành Thủy, chủ việc phá cũ xây mới. Phá Quân tính chất cơ bản thay đổi cái cũ bằng cái mới hơn, nhưng lưu ý cái mới chưa hẳn đã hay hơn cái cũ, đa phần hay gặp trường hợp phá hỏng, phá phách mọi việc. Chữ Phá trong từ Phá Quân mang ý nghĩa khá nặng nề do đặc tính của nhóm Sát Phá Tham chủ mạnh bạo, chứa sát khí ít chỗ của tình cảm, tuy nhiên tùy cách mà luận. Phá Quân có tính khai sáng như các sao chủ đứng đầu khác là Cự Môn và Tử Vi. Trong khi Tử Vi hành động, gánh vác trách nhiệm vì lý tưởng nào đó thì Cự Môn nảy sinh bất mãn, khi đó Phá Quân phá bỏ những thứ cũ mà Tử Vi đã xây dựng và thay đổi lại trật tự bằng thứ khác. Nhìn chung với bố cục của ba nhóm sao này khiến mỗi lá số Tử Vi trở nên cân bằng không cho một chiều hướng nào phát triển thái quá, đây cũng là một phần trong tư tưởng con người. Cũng trong Tử Vi, ta có lực lượng mang dương tính là Sát Phá Tham, Tử Vũ Liêm và Cự Nhật. Lực lượng còn lại mang âm tính là nhóm Phủ Tướng, Âm Lương và Cơ Đồng. Các sao Tử Vi, Cự Môn và Phá Quân có khuynh hướng đứng đầu nhưng lại phân bậc thành các cách thành tựu khác nhau, các mức độ to lớn như cả quốc gia hay nhỏ bé như trong gia đình cần xem xét lực lượng bàng tinh gia hội. Phá Quân cần thiết có Hóa Quyền để chuyển tính chất Hung Sát của nhóm sao này, gia tăng tính chất thực hiện được việc thay cũ đổi mới cho nhóm Sát Phá Tham, nhóm sao này thường mang tính phá hoại đối lập với trách nhiệm xây dựng của Tử Vi.



Tuy nhiên các sách thường đề cập tới việc Phá Quân thường có tính bất trung, bất nghĩa là thiếu kiến thức, cách này tùy từng trường hợp của Phá Quân. Phá Quân tốt cần phá bỏ cái gọi là lý tưởng gây ra tai họa của Tử Vi, cũng như vậy được quần chúng ủng hộ là hợp cách. Ví như trường hợp Đế Tinh là Tử Vi thực hiện lý tưởng xây dựng cả một quốc gia, lên ngồi vị trí cao nhất nhưng lại ngộ Không Vong chỉ được hữu danh vô thực, thuộc bị sai khiến cách. Bây giờ Cự Môn cảm thấy bất mãn với Tử Vi và Phá Quân tuy chứa tính sát phạt, phá bỏ và phế truất Tử Vi thì được quần chúng ủng hộ nên thành tựu. Cái thiếu nhất của nhóm Sát Phá Tham là tình cảm, lòng người nên không bao giờ giao hội với nhóm Phủ Tướng và các nhóm khác ngoài Tử Vũ Liêm. Phá Quân luôn có được Thiên Cơ chủ cơ mưu, thời cơ thay đổi ở phía đồng minh nhị hợp. Tất nhiên nếu trường hợp Thiên Cơ xấu cũng xấu lây sang cả Phá Quân, lúc đó thời cơ thay đổi trở thành mối họa phải phá bỏ. Cũng lý do đó Phá Quân không ngại cả bộ Không Kiếp. Với sao Phá Quân và Thất Sát, thế đứng ở trong 12 cung có Phá Quân hội họp với Tử Vi thường là cách xấu bởi đây là cách mâu thuẫn, tạo tranh đấu giữa hai bố cục bạo lực, xấu hơn việc Cự Nhật xung đột với Cơ Nguyệt Đồng Lương khi một bên hiền lành, một bên bất mãn. Tử Vi khi giao hội với Sát Phá Tham do không có bộ Phủ Tướng ủng hộ nên hai thế trở nên cân bằng. Tử Vi và Phá Quân chính xác là một cặp đối ngẫu luôn xung đột lý tưởng với nhau.

Sunday, February 19, 2017

Luận về phi thường cách




Luận về phi thường cách


Trong Tử Vi có nhắc đến nhiều cách gọi là Phi thường cách. Tuy nhiên trong thực tế nhiều cách chỉ được công danh bình thường, chưa đủ điều kiện để được với danh như vậy. Phi thường cách tức cách cục không giống như cách cục thông thường, với các thành công rất lớn, danh tiếng nổi khắp nơi. Thực tế nhiều người lấy cách Tử Phủ Dần Thân hay các cách Tử Vi cư Ngọ gia thêm một số cát tinh gọi là phi thường cách. Thực ra như vậy còn thiếu sót vì phải đi từ mức đầu tiên là bản tính tư duy của Mệnh tạo thuộc ngũ hành và sự hợp lí với Chính Tinh thủ mệnh có thực sự đạt được. Rất nhiều những việc quan trọng hơn chỉ là bố cục của các Chính Tinh. Khi xưa nước ta hay cả Trung Quốc dân đều chỉ ở mức thấp. Trong khi thế kỷ 14 cả thế giới chỉ có 400 triệu người và nếu xét ở trước đó và thêm chỉ có Trung Quốc hay nước ta dân số có thể ít hơn dân số của nước ta. Vì vậy, các cách cục của nước ta như người giàu nhất nước có thể sanh ngang với Thạch Sùng, hay người quyền lực nhất một tỉnh, huyện có thể sánh ngang với một châu lộ. Trên mạng cũng xuất hiện nhiều lá số tốt như trước kia có thể luận là thượng cách hay làm tới tam công, phú quý song toàn. Khi luận đoán thời nay phải xét tới tỉ lệ so với thời trước. Như tài sản thuộc 0.01% người giàu nhất tức hơn cả khoảng 89 triệu người còn lại xét với trước phải xét vào đại phú tức bây giờ là 9 nghìn người trên quốc gia. Và tỉ lệ là khoảng 10 trên 100 nghìn dân. Dân số Trung Quốc thời trước khá cao. Chí Nguyên năm thứ hai mươi tám (công nguyên 1291) dân số cả nước ghi trong sổ giảm còn 59,85 triệu người, so với đỉnh cao dân số đời Tống giảm trên 40%. Hồng Vũ năm thứ hai mươi sáu đời Minh (công nguyên 1393) số dân cả nước ghi trong sổ là 60,55 triệu người, Vĩnh Lạc nguyên niên tăng lên 66,6 triệu nguời. 

Vì vậy xét ta ngày nay phải hơn gần gấp rưỡi cả đất nước Trung Quốc, tỉ lệ người giàu ở nước ta xếp hạng không đồng đều tại mỗi nơi. Thường thì nước ta chỉ chênh lệch đa phần tại các Thành Phố và Nông Thôn. Nếu như bạn có khoảng 10 tỉ thì bạn sẽ đứng trung bình ở vị trí hàng đầu của một huyện của tỉnh lẻ. Thường thì dân số một huyện dao động khoảng 100 nghìn đến 200 nghìn. Nếu bạn có khoảng 10 tỉ của Việt Nam thời nay ứng với số của bạn là đã ở mức tốt đẹp khó gặp, có thể nói là thượng cách của thời trước. Như ví dụ, tất nhiên trên tương đối, xét với tỉ lệ có Xương Khúc khi tháng sinh có 3 tháng lẻ trong 6 tháng lẻ, trong 12 tháng là 1/4 người, có thêm Tả Hữu là ở tại các cung có Xương Khúc tỉ lệ là 1/4. Xét với bộ Tuế Hổ Phù cao nhất là 1/12. Xét tới tùy từng Thiên Can có từng sao trong bộ Tam Hóa. Trong 10 Thiên Can thì tỉ lệ có Khoa Quyền chỉ một số tuổi đủ cả bộ luôn hình thành. Như tuổi Đinh có cách Cơ Đồng luôn tam hợp hình thành Khoa Quyền. Tuổi Bính có Cơ Xương khi Văn Xương luôn có khi đã có bộ Xương Khúc. Tuổi Mậu là Nguyệt Bật. Tuổi Tân là Nhật Khúc. Xét tỉ lệ khoảng 1/24. Vậy chỉ xét tới bộ Khoa Quyền Xương Khíc Tả Hữu Tuế Hổ Phù đã có khoảng 1 trên 4600 người có thể đạt được. Chưa xét thêm các yếu tố khác mà chỉ tính khái quát ta nhận ra rằng để có cách cục đẹp trong Tử Vi cũng khá tương ứng với bên ngoài. Vì vậy khi thấy bản thân có lá số đẹp nhưng chưa giàu có hay địa vị thì hoặc lá số sai, hoặc chưa tới vận. Về Phi Thường Cách tỉ lệ thường rất ít trong cả tử vi và đời thực, không chỉ những cát tinh ở trên mà còn có cả bố cục Chính Tinh tốt và hợp lí. Việc có lá số phi thường cách Mệnh Thổ, Tử Vi cư Ngọ gia Khoa Quyền Lộc Khôi Việt Xương Khúc Tả Hữu Hình Ấn là rất hiếm có. May ra chỉ được như lá số của Chu Du.
" ĐẾ TỌA LY CUNG TAM KỲ HÌNH ẤN KHÔI XƯƠNG HỒNG BẬT, HẠN CỰ SÁT ĐÀ LINH CHU DU CĂM HẬN MỆNH VONG".
Còn nhiều cách cục phi thường cách mà tưởng như hung sát cách.

Luận về sao Hoa Cái






Luận về sao Hoa Cái


Sao Hoa Cái là một sao chủ về cái đẹp. Với Đào Hoa chỉ cư ở Tí Ngọ Mão Dậu thì sao Hoa Cái chỉ cư tại Thìn Tuất Sửu Mùi. Hoa Cái đồng pha với bộ Tuế Hư và gia tăng sức tốt đẹp cho bộ Tứ Linh gồm Cái Hổ Phượng Long. Bộ Tứ Linh giá trị như bộ Khôi Việt ở mặt quý. Sao Hoa Cái là ngôi sao chủ sự tài năng, Mệnh có thường chủ giỏi về một mặt nào đó thu hút được người khác. Cách hay nhắc đến khi có Hoa Cái.

" HOA CÁI THIÊN DI XUẤT NGOẠI CẬN QUÝ".

Hoa Cái có đặc tính quý, nếu tại cung Thiên Di tức ra ngoài được gần quý nhân, sang trọng giúp đỡ. Tuy nhiên cách này cũng biểu hiện rằng Mệnh kém hơn Di, bên ngoài tốt hơn bản thân ta. Người quý nhân là chủ nhà, ta chỉ là kẻ giúp việc được giúp đỡ. Cũng như việc Mệnh có Tử Vi cư Ngọ mà bên ngoài là Tham Lang cư Tí, ta là người bảo vệ, bảo vệ người quý kia. Vì vậy, sao Hoa Cái ở tại Mệnh hoặc tam hợp tốt hơn tại cung xung chiếu trong trường hợp bình thường. Hoa Cái thuộc nhóm sao tăng tính quan trọng.

" HOA CÁI TẤU THƯ THANH CAO TÙNG CHÚNG".

Đây là cách văn thư nghệ thuật. Tấu Thư là sao chủ về văn thư, khi đi với Hoa Cái mang tính đẹp và thanh tao hơn. Hoa Cái không phải là ngôi sao chủ đoan chính như Thiên Hình như một số nơi có đề cập, chỉ là ngôi sao chủ sự sang quý, nếu đi với dâm tinh phát dâm như cách Hoa Cái Mộc Dục. Nhìn chung, sao này thường không đơn thủ và tính chất chủ yếu tăng giá trị nên ít được quan tâm khi luận Tử Vi, cũng chỉ thường dùng để luận các cách dâm tính. Thực ra Hoa Cái có một đặc tính nữa là chỉ phần xác. Đóng tứ mộ một phần vì đây là ý nghĩa của bộ hài cốt. Trong những trường hợp mộ quý như của vua chúa thường gọi là Hoa Cái. Cung Phúc Đức có sao Hoa Cái thường nhấn mạnh ý nghĩa của việc mồ mả. Hoa Cái cũng là cái lọng để che, Hoa ở đây có ý nghĩa là sự trang trí. Hoa Cái thường ưa trưng bày ra bên ngoài sự đẹp đẽ, che cái xấu lại bên trong.

Ngôi sao Thanh Long



Ngôi sao Thanh Long


Thanh Long là bàng tinh thuộc bộ Thanh Phi Phục, đối lập với bộ sao Lộc Ấn Bệnh. Với bộ Thanh Phi Phục chứa đựng sự tan rã, trái ngược với tính chất của bộ Lộc Tồn. Thanh Long là ngôi sao tài năng nhất trong nhóm sao trên. Thường các sách ít đề cập tới ngôi sao này về tính chất của chúng. Thanh Long là ngôi sao chủ tiếng nói, tiếng vọng, danh tiếng. Với Quốc Ấn là sự lưu giữ kỷ niệm, với Thanh Long là sự phát ra của thanh danh. Một bên thu, một bên phát nhưng không hẳn thu là tốt và phát là xấu. Như việc thu được quả bom sắp nổ tức cách Lộc Tồn ngộ Không Kiếp khác với phát thanh tới mọi nơi về việc nghĩa ta làm, việc tốt ta thực hiện, khẩu hiệu toàn quân nghe lệnh. Thanh Long có thêm hai sao là Phi Liêm và Phục Binh nên ý nghĩa ban đầu thường không hay, cần thiết được gia cát, hợp cách. Nhắc tố sao Thanh Long ta thường đề cập tới vị trí cung Thìn gọi là cách Long Cư Long Vị. Sao này khi cư cung Thiên La và Địa Võng xung là hợp cách, chủ sự vang xa của tiếng tăm, danh tiếng. Nếu xấu chủ việc xấu khắp nơi đều biết, lên án. Thanh Long ưa gặp Lưu Hà vì Lưu Hà là ngôi sao chủ dòng chảy, cũng chủ lưu lại tiếng tăm khi đi với Thanh Long. Thanh Long chính là danh tiếng của mỗi người khi thủ mệnh. Cách Kỵ Thanh là tiếng tăm về phẩm chất kỳ lạ, khó làm. Thanh Long hợp với Hóa Kỵ vì chủ lưu thông sự ngăn chặn, cản trở của sao này. Tất nhiên trong trường hợp hai sao này đồng cung mới có giá trị, ở tam hợp không tốt bằng. Ngoài cách Thanh Kỵ ta còn có thể bị gặp cách Phục Kỵ hoặc Phi Kỵ, khi gia cát vẫn luận tốt đẹp, khi xấu mới dùng hai bộ sao này luận cho bộ Thanh Phi Phục ngộ Kỵ. Thanh Long hợp cách với Mộc Dục hình thành cách " THANH LONG VẠN PHÁI THỪA MỘC DỤC DĨ THANH QUANG". Mộc Dục là một vị trí của Vòng Trường Sinh, chủ sự trưng diện, bày vẽ ra bên ngoài, Thanh Long mưu biến hình thành cách tạo tiến vang bề ngoài cho bản thân. Thanh Long cũng hợp với Quan Đới hình thành cách hiên ngang lăng miếu. Thanh Long là ngôi sao chỉ màu xanh lá, chủ sự thịnh vượng khi hợp lí. Màu xanh là màu của sự sinh trưởng, phát triển. Khi có mẫu thuẫn lại thúc đẩy phát triển, cứ tiếp diễn như vậy đối nghịch với tính chất ổn định của bộ Lộc Tồn Ấn Bệnh. Vì vậy, Thanh Long thường đi với tính chất mưu trí, linh hoạt nếu tốt. Thanh Long tuy thường tốt đẹp nhưng khi xấu là mệnh bất đắc chí, chủ mâu thuẫn không ngừng mà không thể tìm ra hướng giải quyết, xấu hơn là bất mã xảy ra chiến tranh, nặng nhất là chết trong bất mãn. Mỗi sao tùy trường hợp thích hợp hay không mà có những tính chất tốt xấu, luôn tồn tại hai mặt chiều hướng ưu điểm và khuyết điểm trong cùng một Chính Tinh hay Bàng Tinh.
" NHẬT PHÙNG HÃM ĐỊA THANH LONG CÓ NGƯỜI PHƯƠNG ẤY VẪY VÙNG KHÔNG LÊN".

Các vị tướng lĩnh và Tử Vi Tướng Số



Các vị tướng lĩnh và Tử Vi tướng số


Không chỉ thời nay đa phần dân ta còn sử dụng các cách nhìn người mà chọn lấy vợ, gả chồng hay đối tác làm ăn. Những người lãnh đạo vẫn để trong tâm một phần văn hóa xem tướng mệnh đoán tính người. Vì vậy việc biên tập các loại sách như Lịch Vạn Sự vẫn có phần cuối Ma Y Thần Tướng. Như ở thời trước Tướng Số hay Tử Vi có chuyên mục báo KHHB trước năm 1975 tuy không mang tư tưởng tiến bộ của CHXH nhưng cũng mang bản sắc truyền thống của nước ta một thời kỳ trước. Ở nước ngoài tiến bộ khoa học cũng có nhiều nhà tiên tri thế giới biết đến và cũng có các tướng lĩnh hỏi dự đoán về một số việc liên quan đến bản thân. Nước ta cũng như vậy, thời trước cũng nhiều vị tướng đã hỏi những nhà Tử Vi Tướng Số về hậu vận của mình. Một tướng lĩnh của VNCH là Đỗ Mậu, ông là Giám Đốc Nha An Ninh Quân Đội đã dày công nghiên cứu và rất am tường về Tử Vi Đẩu Số. Ngoài ra còn có Nguyễn Văn Thiệu là tổng thống của VNCH rất tin vào mệnh quý ba chữ Tí của mình. Tuy nhiên vì những sai lầm trong đường lối mà chịu thất bại, không được lòng dân tức Phượng Các xấu. Không chỉ người thường mà các tướng lĩnh cũng quan tâm tới việc số mệnh của chính mình. Tuy nhiên bàn với góc độ của Tử Vi thì đến mệnh quý hay hèn cũng có thời lên xuống như bao kẻ khác, cuộc đời lúc lên nhanh xuống nhanh là chuyện thường xảy ra. Ở thế kỷ trước, cụ Ba La và cụ Thiên Lương là hai người có ảnh  hưởng rất lớn tới toàn bộ môn Tử Vi Đẩu Số. Thời nay Tử Vi vẫn phát triển nhưng không còn được như trước, vì một lí do việc tiến bộ xã hội khiến mọi người quan tâm tới cuộc sống thực tế nhiều hơn, cuộc sống hối hả hơn trước, lại có nhiều sự hưởng thụ vật chất. Như thời trước còn tồn tại tư tưởng Nho Học thì người nam sinh ra để lấy trọng việc gây dựng sự nghiệp to lớn mới tính tới các việc khác. Mà trong xã hội cũng quan tâm tới Bát Tự và Tử Vi mà phân biệt sang quý, hèn thấp. Cụ Ba La là thầy của cụ Thiên Lương, cụ nổi tiếng đoán đúng sự đổ vỡ của Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ. Cách luận của cụ đã được thực chứng theo đúng nguyên tắc nghiệm lí nên sự chính xác đến mức đáng khâm phục. Cụ bị mù mắt nhưng rất giỏi Kinh Dịch, vì vậy khi sử dụng Tử Vi không bị loạn mà lấy bản chất từ Dịch mà luận tính chính xác. Cụ từng xem cho rất nhiều người, thành phần trong xã hội và cũng nhiều người chứng kiến sở mục thị nhưng ít người có thể đem tâm trạng nghi ngờ trở về. Cách xem của cụ Ba La được sử dụng bởi nhiều người thế hệ sau. Tuy nhiên nhìn vào thực tế rằng các lý thuyết do quan niệm của mỗi người đều có thể thiếu sót khi nghiệm lí và phải chỉnh sửa lại đôi chút. Bản thân người viết cũng cảm khái và nghiệm lí được một phần kiến thức của cụ. Nhìn chung, Tử Vi như một bông hoa màu tím huyền nhiệm nhưng rất tuyệt diệu khi khám phá mà người nào đã gắn bó thì khó thoát ra.

Thiên Thương và Thiên Sứ



Thiên Thương và Thiên Sứ


Bộ Thương Sứ gồm hai sao Thiên Thương đóng tại cug Nô Bộc và Thiên Sứ đóng tại cung Tật Ách. Cách này cho biết đa phần con người đều phải trải qua sinh tử khi đến hạn gặp phải hai sao này. Thương Sứ là hai sao mang tính buồn phiền, vì khi đến hạn đó thì đa phần thế giới trong tâm của ta trở nên hoài cảm lại, những người ta biết đa phần đã ra đi, nếu không thì cũng có cái buồn vì nhận ra tất cả đều già cỗi và không thể quay lại. Thiên Thương ở cố định tại cung Nô Bộc hồi tưởng lại những người ở cùng thời điểm với bản thân. Thiên Sứ tại cung Tật Ách báo hiệu sự thay đổi của cơ thể vì tật bệnh, tai ách. Nhìn sâu vào trong môn Tử Vi thấy rõ cái thăng trầm của đời người, các tư tưởng về tri thiên mệnh chính xác như triết lí của người phương Tây. Vạn vật đều suy tàn, rồi lại sinh trưởng. Vòng trường sinh là một vòng tròn, không phải một đoạn thẳng nên sự tan rã lại là gốc của sự sinh mới. Như thể có một vòng luân hồi, tuy chúng ta chưa trải qua sự chết khó có thể kiểm định nhưng cũng mong là thực sự có để có thể bám víu một chút, dù ở thiên đường hay địa ngục cũng có thể chấp nhận khi không phải sống rồi chết đi mất hẳn. Bộ Thương Sứ đa phần tạo nên các cách cục không hay. Như cách Quế Sứ Hoa Thương nổi tiếng gồm bộ Xương Khúc Thương Sứ. Cách này chủ nghệ thuật buồn não, tượng trưng cho cái chết khi có Thương Sứ. Giàu nhất thế giới cũng chết, nghèo nhất thế giới cũng chết, hạnh phúc nhất cũng chết mà đau khổ nhất cũng chết. Khi có Xương Khúc Thương Sứ ta dễ phải thu nạp tư tưởng bệnh tật, chết chóc trong tâm và cũng tùy từng mệnh tạo mà ta có cảm giác khác nhau về điều đó, hạn tốt ta chấp nhận trong vui vẻ, hạn xấu chấp nhận trong đau khổ. Có thể ta là người làm đám tang cho kẻ khác, không nhất thiết ta là người bị hại. Có người chết sợ hãi tột độ, có người lúc chết lại vui vẻ được giải thoát, có người bám víu với cuộc sống và người thân thể hiện sự buồn bã, có người sống như đã chết. Cách Quế Sứ Hoa Thương trở nên xấu hơn khi thêm Sát Tinh, đặc biệt là các sao chủ mất, vong như Thất Sát, Không Kiếp. Thất Sát ngộ Quế Sứ Hoa Thương mạc phùng giao hội, đây là cách cục xấu chủ mất, gia tăng khuyết điểm chữ Thất trong từ Thất Sát. Sao Thiên Thương và Thiên Sứ phối họp với các bộ sao đa phần khiến các cách cục trở nên xấu hơn, gặp tai họa về một mặt.


 Thiên Sứ đi với Bệnh Phù ắt mang bệnh tật nhiều và khổ vì bệnh tật. Đây chỉ đa phần nhưng có trường hợp gặp hạn Thiên Sứ trở nên bạo phát, công danh đều thu về. Chuyện buồn cho kẻ này luôn có chuyện vui cho kẻ khác. Đây là lý do bộ Đào Hồng Hỉ luôn lệch pha với Tang Tuế Điếu. Nhóm sao Cơ Nguyệt Đồng Lương hạnh phúc, phúc thọ, hưởng thụ luôn lệch pha với bộ sao uy quyền, sát phạt Sát Phá Tham. Hai khái niệm tinh thần và vật chất khó lưỡng toàn nếu là bố cục Chính Tinh ban đầu. Trừ phi có đủ bàng tinh tốt đẹp chiếu củng. Như việc có kẻ thấy làm vua là vui sướng hạnh phúc nhưng đa số kẻ làm vua đều lo nơm nớp việc giữ ngai vàng, sợ bị Cự Môn làm phản, sợ bị mất, chết, bệnh với Sát Phá Tham. Thiên Sứ tốt đẹp với một kẻ cũng khiến kẻ khác đau khổ. Như việc vua cha già qua đời truyền ngôi vị cho con. Như việc tướng lĩnh chết trận kẻ dưới buồn nhưng vẫn phải lên thay. Muôn chuyện như vậy xảy ra trong cuộc sống.  Với sao Thiên Thương một hạn tốt cũng đưa ra kết quả tốt mặc dù trong lòng buồn phiền hay không.
" QUẾ SỨ HOA THƯƠNG TỐI HIỀM GIAO HỘI, MẠC PHÙNG SÁT DIỆU ĐA KHỔ TAI ƯƠNG".
Tất nhiên là ngộ Không Kiếp còn đỡ hơn ngộ Xương Khúc. Với Không Kiếp là họa tới, nhưng có thể tới người khác, cũng có thể tới bản thân nhưng ý nghĩa không đang sợ bằng việc tế lễ, đám tang.

Cung an Thân và chính tinh



Cung an Thân và chính tinh


Xét với Chính Tinh tại cung Mệnh với tính cách, cá tính, tư tưởng của từng sao tác động tới bản mệnh. Các Chính Tinh đóng tại cung an Thân tác động tới bản thân. Cái Bản Mệnh và Bản Thân dường như thường được sử dụng tương đồng nhưng ý nghĩa có phần khác nhau. Bản thân tức những thứ ta đã tạo ra, như một khái niệm đã được người khác nhắc đến sẽ hiện lên trong tâm trí họ. Cái thể hiện ra cơ bản nhất là hình dáng bên ngoài, cách cử động hoạt động. Bản Mệnh là thứ tiềm tàng bên trong, rất khó để nhìn thấy. Ngay cả Bản Thân của mỗi người còn chưa hẳn đã nhận ra rõ ràng các tính chất của Bản Mệnh. Chính Tinh khi an tại cung Mệnh chính là tàng thức, các cá tính ẩn ban đầu khi qua dòng suy nghĩ mới biểu hiện ra. Thường thì cung an Thân chúng ta quan tâm tới việc biểu hiện tình trạng của Thân Thể, có người cho rằng đến tuổi trưởng thành khoảng 32 tuổi thì cung Thân hoạt động mạnh hơn. Thực tế thì Mệnh và Thân luôn hoạt động song song. Càng trưởng thành các thành phần gọi là Bản Thân được dựa từ cung an Thân trở thành hình tượng rõ ràng nên cổ nhân đã đưa ra kết luận như trên từ nhiều nguồn gốc suy đoán và nghiệm lí. Cung an Thân cũng chính là những thứ tác động lên dòng suy nghĩ với tư tưởng ban đầu tại Mệnh. Như Mệnh có sao Thất Sát xấu chủ sát khí, chém giết nhưng cung an Thân có sao Thiên Lương ( Tất nhiên không thể xảy ra nhưng lấy làm ví dụ để rõ ràng tính chất) tốt đẹp sẽ hình thành một dòng tư tưởng. Tư tưởng ban đầu khởi Muốn đánh anh ta, sau một dòng suy nghĩ tiếp theo đến sự việc cuối cùng là Từ Tâm với anh ta. Kết quả là Không đánh anh ta. Tuy nhiên lại có các đại tiểu hạn va lưu phi tinh thay đổi liên tục khiến thay đổi cách suy nghĩ liên tục qua các hạn. Mệnh và Thân là một cặp đối ngẫu khó có thể tách rời. Vì vậy có câu Thân tốt hơn Mệnh tốt. Ban đầu tư tưởng xấu nhưng cách suy nghĩ dẫn đến kết quả tốt thì luận là tốt đẹp. Chính Tinh cư cung an Thân cũng có tính chất như cung Mệnh nhưng cũng liên quan tới Thân Thể nên có những sự khác biệt riêng. Như việc Thất Sát thủ Mệnh tùy từng vị trí có thể xảy ra sự việc tốt xấu, cát hung. Tuy nhiên, khi nhập cung an Thân được phê là yểu cách.
" Thất Sát lâm thân chung thị yểu".
Bộ Sát Phá không nên thủ Thân vì ảnh hưởng xấu tới bản thân. Dễ gặp cách bị sát, bị áp bức, ép buộc. Muốn sống an ổn, suy nghĩ, tinh thần lạc quan thì có cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, đặc biệt là hai sao Phúc là Thiên Đồng và Thọ là Thiên Lương. Cách này cư cung Thân nếu không quá phá cách thì đa phần chủ thọ, tinh thần an ổn, thoải mái sống. Nhưng mọi việc đều có giá của nó, với cách Cơ Nguyệt Đồng Lương thụ hưởng không thể hoạch phát như các cách Sát Phá Tham và Tử Vũ Liêm.

Saturday, February 18, 2017

Tướng số về sắc diện và tử vi



Tướng số về sắc diện và Tử vi


Xem Tử Vi luôn chứa một phần của môn Tướng Số trong việc luận giải. Khi luận cung Mệnh bản thân đương số thường được cung cấp những thông tin về tính cách ban đầu như khuôn mặt, đặc điểm tính cách, ngoại hình nhằm xác định lá số nếu cần thiết hoặc nhận diện Mệnh số phụ thuộc vào Chính Tinh nào trong Tử Vi. Trong tướng số có câu " Hữu tâm vô tướng, tướng tùy tâm sinh". Chữ Tướng Số không chỉ riêng các nét về ngoại hình để luận Số mà quan trọng ở khí toát ra thể hiện ra con người. Các sao tọa thủ tàng khí để tạo nên tính cách. Mệnh có Tử Vi hoàn chỉnh tướng mạo uy nghi, kiên định, khuôn mặt thể hiện một lý tưởng cao lớn và điềm tĩnh. khi độc tọa tại các cung Tí Ngọ tính chất đó càng thể hiện rõ ràng nhất bên ngoài, tượng cả một sự cô độc cao nhất và bình thản với các tham vọng khác, có chính kiến khó lung lay, lấy cải ạo xã hội làm gốc, vì vậy cần thiết có các trung thần Tả Hữu phò tá nếu không khó hoàn tất được lí tưởng. Đây là cách cục đứng đầu của Tử Vi, không bị tác động bởi các Chính Tinh khác tọa thủ, được tôn xưng là Đế cư Đế vị. Và đây cũng là trường hợp duy nhất sao Tử Vi độc tọa. Tất nhiên Tử Vi cư Ngọ vẫn tốt đẹp hơn cư Tí vì được thêm bộ Âm Dương sáng nhưng xét tính chất của Tử Vi không khác nhau nhiều. Xét về tướng mạo nếu đúng cách Tử Vi độc tọa có khuôn mặt thanh tú, hoặc phương phi tùy vào các bàng tinh, khí thế thể hiện là, trầm tĩnh, tôn nghiêm, cô độc, cao ngạo. Chỉ với cách Tử Vi độc tọa nhiều sách đã viết là khuôn mặt đẹp là có phần không đúng. Tử Vi các cách khác tùy trường hợp đồng cung với các Chính Tinh khác như Phá Quân, Tham Lang, Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thất Sát mà các tính chất thay đổi ít nhiều. Như đồng cung với Thiên Phủ giảm đi tính cô độc, tăng cường tính bảo thủ mà mất đi một phần chính kiến, cách này ảnh hưởng nhiều tính cách của Thiên Phủ. Nếu có Thất Sát hình thành cách Tử Sát cư Tị Hợi khuôn mặt tăng sức sát khí, mất đi phần ít nhiều tính trầm tĩnh, gia tăng sự tôn nghiêm, quyết đoán có phần sát phạt.


Nếu ngày nay nam nữ quan niệm ưa thích tướng mạo gọi là nam tính, lạnh lùng thì Mệnh tạo có Thất Sát ngộ Linh Tinh. Sao Linh Tinh thủ mệnh trong đa phần các trường hợp có tính cách lạnh lùng, khuôn mặt khi trưởng thành thể hiện càng rõ rệt. Nếu xét tới khuôn mặt và ngoại hình thường có thể tìm hiểu được một số tính cách qua thời gian tâm biến hiện lên ra bên ngoài. Tướng số luôn thay đổi phù hợp với việc đại hạn thay đổi liên tục. Nếu một khi người xem tướng luận rằng sắp có tai nạn khó qua khi tâm trí bình thường, tức là khí đương hiện cho biết đại hạn sắp xảy ra chính do dòng khí như Tử Vi. Các sao Xương Khúc chủ sự thanh tú. Sao Đào Hồng thể hiện khí sắc đẹp trên ngoại hình. Cái đẹp của Xương Khúc không luận như Đào Hồng. Cái đẹp của Quang Quý không luận như Xương Khúc. Khi Xương Khúc có thêm Long Phượng nét đẹp trở nên cao quý, sang trọng. Khi Đào Hồng có Thiên Tướng nét đẹp tụ trên khuôn mặt. Những mỗi người mỗi quan niệm, mỗi thời kỳ một quan niệm. Giới trẻ thấy hình ảnh Hoa Hậu ở thập niên 80 chắc hẳn ngạc nhiên. Ngay mỗi cá nhân đánh giá một người đã cho ra các nhận xét khác nhau. Vì vậy, cái đẹp là khí, là sự ngưỡng mộ tới bản thân là chủ yếu. Vậy sao cần thiết nhất chủ đẹp phải là bộ Long Phượng, tuy theo gia thêm các đào hồng, xương khúc, quang quý, tả hữu,.. mà có cách nét đẹp thanh tú, nét đẹp thanh khiết, nét đẹp phương phi, đầy đặn. Ngay sao Thiên Diêu trong bộ Hình Diêu có thể đẹp theo dâm cách, cũng có thể đẹp do sự đứng đắn khi Hình tác động. Vẻ đẹp thanh khiết, cao quý thường được dành để chỉ một vẻ đẹp hiếm có, trong tử vi cũng mô tả cách này. Nhìn vào tính chất của cái đẹp ấy, tất nhiên là vào trong cùng thời kỳ và đa số đáp ứng tiêu chuẩn cái đẹp của mỗi người. Cần thiết có Phượng Các vì đây là cách được ngưỡng mộ, có Khôi Việt vì là cách hiếm gặp, có Xương Khúc khiến trở nên nghệ thuật, có Đào Hồng biểu thị sắc đẹp, cần thiết có các sao chủ hiền hòa, lương thiện như Thiên Cơ, Thái Âm, Thiên Đồng, Thiên Lương, Quang Quý và Hình Diêu. Cuối cùng tùy các sao chủ tăng tính quan trọng hội họp. Như vậy tổ hợp chính là Đào Hồng Xương Khúc Khôi Việt Phượng Các và nhóm sao Cơ Nguyệt Đồng Lương gia Quang Quý và Hình Diêu. Thiên Diêu khi thêm hung sát, dâm tinh là u ám, mờ mắt nhưng cũng có nghĩa khác là trong sáng, ngây thơ nếu hợp cách, Thiên Hình chủ hình mẫu. Thêm các sao như Tuần, Đại, Khoa,.... tăng thêm giá trị cách cục. Thực tế người ta chỉ quan tâm tới cái đẹp nhất nhưng vẻ xấu thì ít người quan tâm. Trong tử vi cũng có các bộ sao chủ xấu như ngoài thực tế. Vì vậy, Tử vi cũng có nhiều điểm của tướng số mà mô tả trong lá số. Tướng mặt kiên định, phương phi, uy nghiêm cũng thường được bộ sao tốt hợp cách.

Đại hạn bạo phát của Mệnh tạo



Đại hạn bạo phát của Mệnh tạo


Như bài viết trước người viết đã đề cập tới việc quan trọng của Đại Hạn trong việc luận đoán Tử Vi. Một lá số luôn phải nhìn ở các thời điểm khác nhau, có khi phát trẻ thì khỏe già, giàu có, công danh thay đổi từng hạn, khi xem từ gốc đại hạn trước để làm nguồn bắt đầu cho hạn tiếp theo. Một số đại hạn lực bạo phát rất lớn. Tất nhiên còn liên quan đến vật chất bên ngoài xã hội có đầy đủ để tạo hoạch phát hay không và quan niệm giàu nghèo của mỗi người. Một người bị kìm kẹp trong tù lao thì những tính chất của hạn tốt giúp người đó thoát ra ngoài tù bằng sự trợ giúp hay bản thân là chủ yếu, cách cục tài cách chủ liên quan tới xoay sở tiền bạc trong đó, hay những thứ bên ngoài đương số không thể kiểm soát được. Một lá số có Mệnh trên bình thường nhưng không quá xuất săc, cách cục ban đầu chỉ là Âm Dương cư Sửu có Lộc Mã Khôi Đại Phượng Đà hội họp, bản cung có Âm Dương Lộc. Bộ Âm Dương cư Sửu có Tang Hư Khách là khá tốt đẹp, mệnh có Điếu Khách chủ khả năng giao tiếp, tùy biến cao. Được cách Khôi Đại chủ sự việc tiến triển lớn, nếu tai họa cũng phát triển tới mức cao trào. Trong trường hợp này ở mức trung bình khi hội họp các bàng tinh hợp với bộ Âm Dương, cách Lộc Mã chủ đa năng, có Phượng Các bên ngoài vì Âm Dương còn chủ danh tiếng, đây là cách được khen ngợi nếu thành công và thông cảm nếu thất bại. Có trường hợp bị tai tiếng ngay khi thành công, bị chửi rủa khi thất bại là trường hợp khác. Nhìn chung cung Mệnh không có gì thành công vì cách cục cũng chỉ ở mức trung bình, chỉCung an Thân VCD tại Mùi được Xương Khúc Kình Linh Phượng có Tuế Hổ Phù tọa thụ gia Triệt Kỵ Hình Việt. Đây cũng là cung Thân nếu xét thuộc cách cát hung tương bán. Hình thành bộ sao xấu Việt Linh Hình ngộ Kỵ Triệt không tốt đẹp khi tại cung an Thân, đây là cách gặp Sát Khí, tuy nhiên không bàn tới việc tốt xấu mà bàn tới mức độ thành công. Như trường hợp vừa nổi danh lúc trẻ đến hôm sau đã phải làm tang, trường hợp này cũng không phải tốt về vấn đề sức khỏe, chủ hung họa. Bàn tới Đại Hạn Cự Cơ cư Mão. Đây là cách Cự Cơ đồng lâm có Triệt Khoa Kị Khốc Tuế Tiểu tại bản cung, tam hợp có Quyền Long Phượng Xương Khúc ngộ Việt Linh Hình Kình Hổ. Đại hạn này sắp xếp lại là cách Cự Cơ cư Mão ngộ Song Hao gia Khoa Quyền Xương Khúc Tuế Phượng và Việt Linh Hình Triệt Kình Kỵ. Cách cục này giao hội nhiều bàng tinh khác biến hóa khó luận đoán. Xét về từng mặt như công danh, tiền bạc, tai họa cần chi tiết hơn để nhìn rõ các tổ hợp. Xét về cách phát công danh sự nghiệp nổi tiếng, được cách Cự Cơ là tính chất gốc ban đầu tức tất cả mọi việc liên quan tới cơ hội, thời cơ, nguy cơ. Cách Cự Cơ xét tính động hợp cách Song Hao tăng tính chất thay đổi, có Triệt Khoa Quyền là nắm bắt, gia Xương Khúc Long Phượng Tuế là được ngưỡng mộ bởi đường lối, tính cách đúng đắn. Cách này gia tăng tính chất từ cách Cự Cơ Song Hao và Khoa Quyền. Nếu như vậy đây là cách nắm bắt hoàn toàn cơ hội chính đáng, đúng pháp luật, cũng là cách nổi danh liên quan tới cơ hội, phản đối mà tạo ra danh tiếng và quyền hành.


Nhìn sang tổ hợp sao khuyết điểm gồm các sao Hổ Kình Kỵ Hình Linh Việt chủ vi phạm pháp luật, liên quan tới sát tính, tai họa giáng xuống. Bản chất của tổ hợp này gia tăng tính chất cho cách Việt Linh Hình và Kỵ Hình. Quan trọng khi xét đại hạn cần xem các tính chất ban đầu của Chính Tinh sau đó thay đổi nhờ các bộ sao tính chất riêng. Như vậy, tổng hợp cách cục này khi chưa cân đối lực lượng là việc nắm bắt cơ hội để thay đổi, trong đóng xét kỹ hơn có các cơ hội liên quan tới sơ hở pháp luật, các cơ hội thật sự. Tổ hợp Sát Tinh mạnh, tổ hợp cát tinh phù hợp mạnh khiến phúc họa tương bán. Đặc biệt nhìn mức độ leo cao lên, các bộ tăng tính quan trọng của một tính chất ở việc các sao cùng tính chất giao hội. Như việc nổi danh ta có Khoa Quyền là nổi danh, thêm Xương Khúc chủ danh tiếng, lại thêm Tuế Hổ Phù lập trường gia tăng, có Kình Phượng được ủng hộ, Cự Môn là lớn, Khôi Việt chủ to. Các sao có một phần tính chất chủ nổi tiếng tụ tập khiến tổ hợp này các mạnh, quyết định chính xác việc ngoài thực tế danh tiếng hoặc xú danh vang ở khắp nơi. Trong trường hợp này có thêm Tuần, Đại, Ấn,... thì tới tầm quốc gia. Với đại hạn này đương số có lợi hơn hại, nhìn tương quan các cách hóa giải mạnh như Kỵ Linh Quyền, Cự Cơ Song Hao khiến đi theo chiều hướng phát triển hơn thất bại, vì Sát Tinh bị chế phục một phần lớn chuyển thành quyết tâm, tham vọng, tính hoạch phát. Vòng Trường Sinh tăng khí cho tổ hợp. Một đại hạn mạnh có thể khiến đương số trở thành người rất giàu, rất có địa vị nhưng cũng nhiều trường hợp ngoài kia khi tụ tập tính sát, tính ám, cản trở lên mức cao thì mất tiên, địa vị tới mất danh tiếng và cuối cùng là mất mạng.

Friday, February 17, 2017

Luận giải lá số Tử Vi đúng hơn phần 2



Luận giải lá số tử vi cơ bản (phần 2)


Đây là phần 2 của tập bài viết "Luận giải lá số Tử Vi đúng hơn". Trong Tử Vi các bố trí của Chính Tinh thủ mệnh chia làm các hạng Thượng Cách, Trung Cách, Hạ Cách. Nếu trước nói không cần chia vì để quên đi việc đắc hãm mà chú trọng tới bàng tinh, ma thực ra là do bàng tinh quyết định tất cả. Nhưng ở trường hợp này ta xét tới cách cục cao thấp khi bàn về tính chất của các tổ hợp Chính Tinh trong trường hợp chỉ xét đến 14 sao này. Ta có đa phần các cách có tính chất ban đầu tốt xấu chia thành các cấp bậc thường đã được đề cập tại các sách xem Tử Vi, nếu chính xác cần chia riêng các vị trí theo từng tính chất về Quý, Phú, Phúc, Thọ nhưng phức tạp nên chia chung các cách như Tử Vi cư Ngọ kế đến Tử Vi cư Tí, Liêm Phủ Thìn Tuất, Tử Phủ Dần Thân, Đồng Lương Dần Thân, Dương Lương cư Mão, Thái Âm cư Hợi, Vũ Phủ Tí Ngọ,... tiếp theo đến Cơ Lương Thìn Tuất, Cự Cơ Tí Ngọ, Cự Cơ Mão Dậu, Thái Dương cư Ngọ, Thất Sát Tí Ngọ, Tử Tướng Thìn Tuất, Tử Sát Tị Hợi, Thiên Lương Tí Ngọ, Đồng Âm cư Tí, Âm Dương Tuất Thìn, Vũ Tướng Dần Thân, Liêm Trinh Dần Thân, Phá Quân Tí Ngọ, Thất Sát Dần Thân, Tử Phá Sửu Mùi.. kế đến các trường hợp thấp hơn như Cự Môn Tị Hợi, Thiên Lương Sửu Mùi, Âm Dương Sửu Mùi, Thiên Cơ Tị Hợi, Thiên Đồng Tị Hợi. Thiên Lương Tị Hợi,... và các tổ hợp cuối cùng là Thái Âm cư Ngọ, Thái Dương cư Hợi Tí, Thất Sát Thìn Tuất, Liêm Sát Sửu Mùi, Vũ Phá Tị Hợi,... nhìn chung khi nhắc tới các cách cục này ngay ở các kinh sách hay các câu phú đa phần đều có ý nghĩa phân chia như:
" Liêm Sát đồng cung lộ thương mại thi".
" Vũ Sát Phá Liêm hội khúc toàn cố quy".
" Tử Vi cư Ngọ đế tọa Ly cung vô Sát tẩu Đinh Kỷ công khanh".
" Tử Vi cư Ngọ vô Hình Kỵ, Giáp Đinh Kỷ thỏa chí bình sinh".
" Thiên Đồng Tị Hợi nam lãng đãng, nữ đa dâm".
" Thất Sát Tí Ngọ Dần Thân tước lộc vinh xương".


Các cách này được phân chia vì tính chất mỗi cách cục chính tinh và vị trí tọa cung đều khác nhau dẫn tới kết quả khác nhau. Việc xem Tử Vi cần xét tới các tính chất ban đầu chủ trong tiềm thức tức Mệnh tạo để xem gốc rễ mới tăng giảm tính chất bởi các bàng tinh thì đưa ra dự đoán sát với thực tế. Khi phân biệt các cách cục của Chính Tinh xong cần thiết xem Mệnh hợp với Chính Tinh thủ Mệnh hay tròn tam hợp, nếu trong tam hợp thì ảnh hưởng tới phần tính chất của Chính Tinh ấy hơn Chính Tinh thủ mệnh, tuy nhiên diễn biến tính chất của cách cục không thay đổi và luận tới việc tính chất toàn bộ tính chất phối hợp các Chính Tinh của nhóm trong trường hợp đầy đủ và giao hội với nhóm khác trong trường hợp còn lại. Phần phân chia vị trí hay gọi là miếu hãm của Chính Tinh ý nghĩa thực tế đơn giản như vậy, do nhiều người mới tìm hiểu Tử Vi quá chấp vào tính miếu hãm mà coi trọng việc đó, xem nhẹ các bàng tinh hay sát tinh không xem xét từng phối hợp tính chất, mặc nhiên cho Mệnh có cách cục Chính Tinh thuộc thượng cách là giải được các Sát Tinh. Sau khi xem xong sự hợp ngũ hành với Chính Tinh của Mệnh và tính chất ban đầu của cá tính ở đại hạn đầu khi ta còn hoạt động ở cung Mệnh, khi đó ta đã có được tính chất cơ bản ban đầu của Mệnh hay được gọi là bản tính. Tiếp theo cần thiết xem sự giao hội của Chính Tinh với Bàng Tinh, Tuần Triệt, các cung nhị hợp, xung chiếu, lục hội.